1 thg 6, 2010

Tiếng nấc

Chị đã bước sang tuổi bốn lăm, tóc đã điểm những sợi bạc. Thời gian này chị có gầy đi nhưng vẫn giữ được nét đẹp dịu dàng, đôn hậu, kiêu sa của một người thiếu phụ có học. Với vẻ đẹp của chị mấy năm trước, nhiều chị em trong trường đã phải thốt lên:
- Mày xinh đẹp như vậy, là phụ nữ tao còn mê huống chi bọn đàn ông.
Thường những người phụ nữ nhan sắc, tài ba tục ngữ có câu “Hồng nhan bạc mệnh” có phải vì thế nên chuyện tình duyên trắc trở nó đã theo đuôỉ chị suốt đời.
Chị sinh ra và lớn lên ở một thị xã miền trung du, bố chị là ông Đồ Nghệ ra ngoài này dạy học, lấy cô giáo cùng trường rồi lập nghiệp tại đây, cái thị xã nhỏ bé này dù chỉ là quê ngoại nhưng cả tuổi thơ cũng như những năm học đại học gắn bó với chị, bao nhiêu kỷ niệm vui buồn đã in sâu vào trí nhớ, mỗi khi cả nhà xum họp hay gặp lại các bạn tuổi ấu thơ cùng học ngày xưa chị kể vanh vách như mới ngày hôm qua.
Được thừa hưởng cái gen của bố, khi còn là sinh viên chị đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, lại có đề tài khoa học được đánh giá cao ở trường. Thầy Chủ nhiệm lớp đại học không như thầy chủ nhiệm ở phổ thông, nhưng thầy thường xuyên đến thăm chị ở kí túc xá, đồng thời trao đổi nội dung sinh hoạt seminer hàng tháng cho sinh viên trong khoa hoặc đưa chị mượn giáo trình để tham khảo, với linh cảm của một thiếu nữ chị biết thầy yêu mình, mấy cô bạn cùng phòng không nói, nhưng những biểu hiện họ tỏ ra ghen tức với chị. Nhiều lần chị lảng tránh lấy lý do để không muốn gặp thầy. Song cái gì đến nó sẽ đến, hôm ấy thầy đến chơi các bạn cùng phòng đi vắng, khác với mọi lần ngồi rất lâu mà chẳng nói gì, khi về thầy gửi chị cuốn sách trong đó có lá thư:
“Em thân yêu! Chắc em không khỏi ngạc nhiên khi nhận lá thư này, thời gian cũng đã đủ để anh nói với em: Anh rất yêu em, em hãy tin điều đó là sự thực. Anh luôn mang hạnh phúc đến cho em và cùng em đi hết cuộc đời này”.
Chị gấp thư và đi lại bên cửa sổ, ngoài trời một không gian mênh mông với ánh sáng nhạt nhoè được hắt lên từ ngọn đèn dưới sân. Chị im lặng thở dài.
Chị biết thầy là người của công việc, thời gian hàng ngày dành cho nghiên cứu khoa học và lên lớp, khu tập thể cán bộ giảng dạy chỉ có thầy ăn bếp ăn tập thể cùng sinh viên, thầy bảo ra chợ rất ngại không biết mua bán. Mấy lời tỏ tình ấy cũng đủ hiểu thầy yêu chị như thế nào, bao nhiêu lần gặp nhưng chưa một lần trái tim chị dung động trước thầy.
Thầy đâu có biết, lúc đó chị đang yêu một cậu cùng lớp hơn chị chưa đầy một tuổi, họ yêu nhau say đắm, suốt ngày bên nhau tưởng như trên đời này chỉ có họ mà thôi, không có sức cản nào làm xa rời được đôi uyên ương ấy. Năm cuối ở đại học hai người đã công khai với gia đình và bạn bè hẹn, báo cáo với tổ chức khoa xin về cùng nơi công tác, sau đó làm lễ cưới.
Tốt nghiệp đại học, chị về dạy học quê bạn trai bên bờ sông Luộc. Cả nhà đều thương và lo ngại cho chị, vừa phải đi xa lại ở vùng quê nơi mà không có một người thân. Dù là chị cả nhưng từ nhỏ đến giờ chưa hề biết lo toan vất vả, mọi việc ở nhà đều do mẹ làm. Hôm nhận quyết định, cả bố mẹ xuống tận trường sắp xếp nơi ăn nghỉ cho chị, lúc chia tay hai mẹ con ôm nhau không muốn rời xa.
Về đây, dù là giáo viên cấp 3 nhưng cuộc sống của mọi người lúc đó đầy khó khăn vất vả. Chả thế mà có giai thoại được truyền nhau vừa buồn cười nhưng không khỏi chạnh lòng, trên bảng tin của cửa hàng thực phẩm ghi:
"Ô 01 tháng 1 bìa C, D mọi cán bộ công nhân kể cả giáo viên được mua thêm 2lạng thịt"
Tháng nào cũng vậy chưa hết tháng đã không còn tiền, mỗi khi về nhà bao giờ chị cũng xin mẹ khi thì lạng mì chính, hay túi cá khô, lúc thì can dầu đốt. Cuộc sống thiếu thốn vậy nhưng ai cũng vui chẳng thấy kêu ca, gặp nhau là cười đùa.
Hết một học kỳ, bạn trai của chị xin nghỉ việc để đi xuất khẩu lao động ở Nga, ban đầu chị khóc và phản đối dữ dội, nghe mọi người phân tích và được thấy những người đi "Tây" thường xuyên gửi hàng hoá về giúp đỡ gia đình, cuối cùng chị cũng để anh đi. Sau hai năm chờ đợi chị nhận được tin anh đã lấy vợ người Hà Nội cùng làm bên đó, bỏ việc đi buôn bán quần áo.
Tin ấy làm chị gục ngã tưởng như không vượt qua được, nhiều lúc chị không tin cho đây chỉ là giấc chiêm bao, cả tháng chị không ra khỏi nhà, niềm vui của chị chỉ còn là các em học sinh, và những bức thư động viên an ủi của cô em gái gửi ra cho chị. Mỗi khi đêm về gối chị thấm đầy nước mắt…
Đã có lúc chỉ định bỏ dạy học để về nhà. Thời gian đó một anh bộ đội chuyển ngành làm cán bộ vật tư, cháu ông Phó chủ tịch huyện đến tìm hiểu và là chồng chị sau này. Tối nào anh cũng đến chơi, mỗi khi về thăm bố mẹ, anh làm "tài xế" đưa đón chị ra bến xe của tỉnh. Mấy tháng sau anh ngỏ lời yêu chị, dù chị chẳng hề yêu, nhưng “mưa dầm thấm lâu”, cuối cùng chị buông xuôi nhận lời lấy anh.
Công việc của chồng chị lúc đó hàng ngày giao nhân vật tư, mặc dù không học hành gì chỉ là anh bộ đội chuyển ngành nhưng thu nhập gấp bốn, năm lần lương chị mà chẳng vất vả đi đâu xa, thời buổi “xin và cho” chỉ một chữ ký cũng bằng cả tháng lương. Cưới nhau chưa đầy một năm vợ chồng chị đã xây được nhà, cuộc sống của chị là mơ ước của nhiều giáo viên trong trường. Hàng ngày chị đi dạy học, không phải lo gạo, thực phẩm, chất đốt… là những mặt hàng chiến lược của thời bao cấp, chỉ có điều chị thường xuyên phải nghe những câu:
- Hôm nay em thích ăn thịt nuộc hay thịt quay để anh mua?
- Em đừng phải no nghĩ nàm gì cả cứ để đấy cho anh!
- A nô ai gọi đấy...
Mỗi khi nghe những câu như vậy chị chỉ muốn bịt tai, dù đang vui cũng tan biến. Đã thế khi cùng chị đi chơi với bạn bè anh lại hay nói, mọi người hiểu được chỉ cười như để an ủi chị. Song khổ nhất với chị là chuyện "chăn gối", nhiều đêm chị cứ vờ soạn bài, làm việc chờ anh đi ngủ trước, rồi chị mới vào giường, nửa đêm anh vùng dậy như con thú khát mồi, chị chỉ biết cắn răng, ràn rụa nước mắt.
Ông trời như hiểu và thương chị, cho chị hai đứa con giống mẹ nhiều hơn giống bố, học giỏi chăm ngoan, đứa con gái lớn đã vào Đại học. Cháu rất hiểu và thương chị, mỗi khi ở trường về hai mẹ con lại bên nhau thủ thỉ đến gần sáng. Mỗi lần cháu ở trường về đều nói với chị:
- Mẹ đừng buồn, có hai chị em con là hạnh phúc của mẹ rồi, sau này con sẽ ở với mẹ. Chị chỉ cười ôm con và nước mắt chảy ra.
Cơ quan chồng chị thu nhập không còn được như trước. Do cơ chế thị trường xoá bỏ bao cấp, công việc ít cán bộ lần lượt thay nhau nghỉ hoặc tự tìm nguồn hàng mua đi bán lại để có lãi chia nhau, sau nhiều ngày chống chọi cuối cùng cơ quan giải thể và anh được nghỉ mất sức.
Sau ngày nghỉ việc chồng chị không nghề nghiệp chẳng biết làm gì, có ít tiền phụ cấp chế độ trước khi nghỉ, anh cùng với mấy người bạn đi nhập phân đạm và thuốc trừ sâu về bán, được mấy chuyến đầu mua bán dễ dàng, chuyến sau không có giấy tờ chứng minh nguồn hàng Ban quản lý thị trường tịch thu hết, thế là trắng tay. Cả nhà chỉ còn trông vào đồng lương của chị, không còn đường nào khác chị liều về quê vay tiền bố mẹ mua máy khâu để làm thêm, sáng đí dạy chiều về nhận may gia công hoặc may quần áo trẻ em giao cho các bà bán ngoài chợ công rẻ mạt, thu nhập chẳng đáng là bao chỉ đủ để mua ra.
Mấy năm sau dạy thêm không còn cấm đoán, học sinh đến học chị ngày một đông, hàng tháng chị thu nhập chính bằng dạy thêm, đã mua sắm được nhiều đồ dùng đắt tiền, tiện nghi sinh hoạt trong nhà đầy đủ, bây giờ bọn trẻ trong trường lại mơ ước có một gia đình như chị .
Chồng chị ngày càng thay đổi, thể hiện rõ bản chất của người ít học, không còn chăm chút cho chị như ngày xưa nữa, không mấy ngày là không đi cùng bạn bè uống rượu, có hôm say nằm ngay ngoài đường, chị lại phải ra đón về. Nhiều lần hàng tháng anh và chị không nói với nhau một câu, chị lầm lũi đi về như cái bóng.
Vào một buổi trưa chị vừa nằm nghỉ để chiều đi dạy, tiếng chuông điện thoại reo lên linh tính như có điều chẳng lành, từ đâu dây bên kia một giọng nói vội vàng:
- Chị ra ngay bệnh viện anh bị cảm bọn em đưa anh nằm ngoài đó.
Chị choàng dậy hốt hoảng dắt xe lao đi vừa đến cổng bệnh viện mấy người bạn của anh chạy lại dắt xe cho chị và đưa chị vào phòng cấp cứu.
Chị chỉ còn nhận ra chiếc áo sơmi anh mặc, cả người anh dính đầy máu, mọi người vây xung quanh, cô y tá đang lau những vết máu trên mặt. Chị chạy lại bên anh chỉ thốt lên được một câu:
- Sao thế này. Rồi chị gục xuống bên gường.
Hôm đó anh cùng mấy người bạn rủ nhau đi uống rượu trên thị trấn, trên đường về anh bị tai nạn giao thông.
Chị ngồi bên quan tài, ôm chặt hai đứa con như không muốn rời ra. Chị gào, chị hét, chị khóc cho đến khi không còn nước mắt. Chị chẳng còn tâm trí nào để cảm tạ những người đến viếng. Họ nhìn chị với ánh mắt đầy xót xa.
Có phải chị khóc thương anh hay khóc thương cho chính bản thân mình?
Từ nghĩa trang về nhà chị như cái xác không hồn, người ta phải đi bên dìu chị. Đến cửa chị kịp nhận ra thầy Chủ nhiệm và các bạn sinh viên năm xưa, thầy đưa tay đỡ chị vào nhà. Chị nấc lên và ôm lấy thầy:
- Thầy ơi số em khổ thế!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét