Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết được nhiều người biết
đến qua các bài phát biểu, cũng như câu hỏi chất vấn trên hội trường những năm
là Đại biểu Quốc hội. Ông thường nói với mọi người “mình sinh ra không phải ở
chốn quan trường”.
Ông biên soạn rất nhiều sách tham khảo cho sinh
viên và học sinh, những bài viết về giáo dục đầy tâm huyết, chỉ mong sao cuộc
sống này mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Ông gửi cho tôi bài viết đã đăng trên Tạp chí CS tháng 9/2012, tôi đưa lên mọi người cùng
đọc.
XÁC
ĐỊNH ĐÚNG MỤC TIÊU GIÁO DỤC
ĐỂ
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN
NỀN
GIÁO DỤC VIỆT NAM
GS.TS NGUYỄN MINH THUYẾT
PGS.TS HOÀNG HOÀ BÌNH
1. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định sứ mệnh của giáo dục như
sau : “Giáo dục và đào tạo có
sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt
Nam.”
Để thực hiện sứ mệnh vẻ vang đó, giáo dục cần được “đổi mới căn bản và
toàn diện”, như yêu cầu của Đại hội Đảng lần thứ XI.
Tuy văn kiện Đại hội không sử dụng cụm từ “cải cách giáo dục” nhưng “đổi
mới căn bản và toàn diện” thực chất là cải cách.
Theo Từ điển tiếng Việt, “căn
bản” với tư cách danh từ có nghĩa là “cái làm nền gốc, cái cốt yếu quy định bản
chất của sự vật”, còn với tư cách tính từ có nghĩa là “cốt yếu, có tác dụng quy
định bản chất của sự vật” [1]. Hiểu như vậy,
“đổi mới căn bản” là đổi mới từ nền tảng, từ cái quy định bản chất của sự vật.
Cái làm nên nền tảng, quy định bản chất của giáo dục, theo quan điểm của chúng
tôi, là triết lý giáo dục mà trước hết là quan niệm về mục tiêu giáo dục.
Đổi mới triết lý giáo dục tất yếu sẽ dẫn đến “đổi mới toàn diện” nền giáo
dục, từ hệ thống giáo dục quốc dân đến nội dung, phương pháp giáo dục, công tác
quản lý giáo dục và phát triển đội ngũ nhà giáo [2].
2.1. Theo một số nhà nghiên
cứu, hai khuynh hướng triết học có ảnh hưởng quyết định tới việc xây dựng mục
tiêu giáo dục là thuyết bản vị xã hội và thuyết bản vị cá nhân.
Thuyết
bản vị xã hội quan niệm phải lấy
việc đáp ứng nhu cầu xã hội làm mục tiêu giáo dục. “Họ [...] cho rằng về phương
diện mục tiêu giáo dục, cá nhân không có chút ý nghĩa nào cả ; mọi chế độ giáo
dục của quốc gia chỉ có một mục tiêu là đào tạo những công dân phục tùng tuyệt đối
lợi ích quốc gia.” [3]
Đây là một quan niệm phổ biến vào thời kỳ cổ đại
và trung đại, từ Đông sang Tây. Mục tiêu của giáo dục lúc đó là đào tạo người
phục vụ vương quyền, thần quyền. Ở Trung Quốc và Việt Nam, không triều đại nào
giáo dục không nhằm đào tạo quan lại. Ở châu Âu cổ đại, giáo dục của thành bang
Sparte ở Hy Lạp “lấy việc đào tạo quan lại, các chỉ huy quân sự và chiến binh
bảo vệ sự thống trị làm mục đích [...]. Vào thời kỳ Trung cổ, giáo hội ở vào địa
vị độc tôn, tôn giáo thống trị tất cả, giáo dục mang đậm sắc thái tôn giáo ;
chính trị và giáo hội là một [...]. Phục vụ giáo hội, thích ứng với nhu cầu của
giáo hội trở thành mục đích giáo dục của cả châu Âu.” [4] Đến giữa
thế kỷ XVIII, nhà hoạt động chính trị người Pháp La Chalotais (1701 - 1785) vẫn
còn bày tỏ mong muốn “nhà nước đảm nhận công tác giáo dục, đào tạo những công
dân để phục vụ nhà nước. Giáo dục phải gắn với hiến pháp và pháp luật, tiến
theo đường lối chính trị.” [5]
Ngược với thuyết bản vị xã hội,
những người chủ trương thuyết bản vị cá
nhân lấy con người làm trung tâm, từ đó xem xét mọi giá trị và định hướng
trong xã hội. Quan điểm này phát triển từ thời kỳ Phục Hưng, khi văn hoá, giáo
dục “thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa tín điều và chủ nghĩa khổ hạnh của nhà
thờ, giải phóng con người và nhận thức, trí tuệ, tài năng theo hướng của chủ
nghĩa nhân văn” [6].
Người ta lấy việc phát triển, hoàn thiện nhân cách của cá nhân làm mục tiêu
giáo dục. John Loke (1632 - 1704), nhà triết học Anh, quan niệm : “Mỗi người có
những đặc tính của mình. Có lẽ không có hai trẻ em nào mà có thể nuôi dưỡng,
giáo dục bằng phương pháp hoàn toàn giống nhau.” [7]
Do đó, theo ông, giáo dục phải đề ra mục tiêu và phương pháp sát thực. Ông ví
người học như một thuỷ thủ đi biển, không cần biết biển sâu bao nhiêu, chỉ cần
biết chỗ nào có đá ngầm cần tránh. Người học cũng vậy, “không cần biết mọi
việc, chỉ cần biết những việc quan hệ đến cách hướng lái cuộc đời” của họ. [8]
Còn nhà triết học Anh John Stewart
Miller (1806 - 1873) thì đề cập đến
vai trò của tự do phát triển nhân cách thông qua quan niệm về mối quan hệ giữa
cá tính với thiên tài. Ông cho rằng thiên tài thường có cá tính mạnh hơn người
khác, phủ nhận cá tính là giết chết thiên tài. Để xã hội có nhiều thiên tài hơn,
cần tạo ra một bầu không khí tự do cho mọi người có điều kiện phát huy cá tính
của mình. [9].
2.2. Để làm rõ sự khác biệt giữa hai đường
lối dạy học – một, thiên về trang bị
kiến thức nhằm đào tạo nhân lực theo yêu cầu phục vụ xã hội, và một – thiên về
phát triển năng lực cá nhân, có thể tham khảo một trích đoạn trong bài viết của một
tác giả Trung Quốc trên tờ Văn Cảo Báo
[10] :
“Một người cha gốc Hoa
đưa cậu con trai chín tuổi tới Mỹ, cho con vào học một ngôi trường ở Mỹ, trong lòng lo lắng vô cùng
vì không hiểu đó là
trường học kiểu gì!
Trong lớp, học sinh tự do tùy ý thảo luận, có
thể cười ầm ĩ ; giáo viên và
học sinh thường xuyên cùng ngồi bệt trên mặt đất ; vào giờ học mà cứ như đang
chơi trò chơi ; ba giờ chiều
đã là tan học ; lại không có
sách giáo khoa thống nhất.
Khi ông đem cho
giáo viên xem bài học lớp 4 mà con ông đã học ở Trung Quốc, giáo viên nói với
ông, cho tới lớp 6, con trai ông không phải học thêm môn toán nữa. Lúc đó, ông
bắt đầu hối hận vì đem con đến Mỹ mà làm lỡ việc học của con.
Ở Trung Quốc, cặp sách
của học sinh nặng trịch những tri thức, còn nhìn con mình bây giờ, mỗi ngày
mang cái cặp nhẹ tênh đến trường, đi học như đi chơi. Một học kỳ nháy mắt đã
hết, ông không khỏi nghĩ ngợi, hỏi con, ấn tượng sâu sắc nhất khi đến Mỹ học là
gì? Cậu bé đáp: “Tự do”.
Một bận, cứ tan học, đứa
trẻ lại chạy tới thư viện rồi mang một lô sách về nhà, thế mà chưa tới hai ngày
đã trả. Ông lại hỏi, mượn sách nhiều như thế để làm gì? Con trai đáp: “Làm bài
tập”.
Sau đó, nhìn thấy tên bài
tập mà cậu bé đang làm trên máy vi tính “Trung Quốc hôm qua và hôm nay”, ông
kinh ngạc suýt ngất: Đây là chủ đề môn học gì vậy? Thử hỏi vị nào đang làm tiến
sĩ dám “ôm” đề tài lớn như thế?
Ông hỏi con trai, đây là
chủ ý của ai, cậu bé hồn nhiên đáp: “Thầy giáo nói Mỹ là một nước di dân, mỗi
học sinh đều cần viết một bài về đất nước mà tổ tiên mình đã sinh sống, còn
phải phân tích sự khác biệt so với nước Mỹ dựa trên địa lý, lịch sử, nhân văn,
đồng thời phải đưa ra quan điểm và cách nhìn của mình.” Người cha im lặng.
Mấy ngày sau, ông thấy
bài tập của con trai đã xong, một tập gồm hơn 20 trang giấy, từ Hoàng Hà chín
khúc đến văn tự tượng hình ; từ con đường tơ lụa tới lá cờ ngũ tinh,…
Cả bài văn được viết với
một khí thế hào hùng, có lý lẽ, có căn cứ, phân chương phân tiết, đặc biệt là
một danh sách thư mục tham khảo ở phần cuối khiến người cha không khỏi bàng
hoàng: Cái cách thức của một luận văn tiến sĩ này, ngoài ba mươi tuổi ông mới
học được.
Đến khi sắp kết thúc học
kỳ lớp 6 của con, ông lại được một phen sửng sốt: Giáo viên đưa ra một loạt câu
hỏi liên quan đến Chiến tranh thế giới thứ hai” nghe như một kỳ huấn luyện
trước khi ứng cử của một thượng nghị sĩ tương lai:
- Bạn cho rằng ai nên chịu trách nhiệm đối với cuộc
chiến tranh này?
- Theo bạn, nguyên nhân thất bại của đảng Nazi
(Đức) là gì?
- Nếu bạn là cố vấn cao cấp của tổng thống Truman,
bạn sẽ tỏ thái độ gì đối với việc Mỹ ném bom nguyên tử?
- Bạn có cho rằng, biện pháp tốt nhất để kết thúc
chiến tranh khi đó chỉ là ném bom nguyên tử?
- Theo bạn, cách tốt nhất để tránh chiến tranh ngày
nay là gì?
[…] Học sinh tiểu học của
Mỹ lúc này đã học được phương pháp tìm đáp án ở đâu mỗi khi có nghi vấn. Ngoài
thư viện, học sinh tiểu học ở Mỹ cũng tìm tài liệu trên các trang web liên quan
khi làm bài tập và một số báo cáo nghiên cứu.
[…] Trong viện nghiên cứu
sinh, rất nhiều người có cảm giác rằng người Mỹ thường không phải là đối thủ
của lưu học sinh Trung Quốc trong chuyện thi lấy học bổng, nhưng cứ đụng tới
lĩnh vực thực tiễn, làm một vài vấn đề có tính nghiên cứu, thì người Trung Quốc
không thể linh hoạt được bằng người Mỹ, không có tính sáng tạo dồi dào như họ.
[…] Một khi không còn quy
định, mất đi sự chỉ đạo, không nhìn thấy hệ thống quy chiếu vốn có nữa, thì với
người Mỹ là giành được tự do, còn với người Trung Quốc, có lẽ chỉ còn lại cảm
giác mất phương hướng, khủng hoảng, trống rỗng, không biết dựa vào đâu.
Khi đã công tác được năm
năm, mười năm, thực tế ấy lại càng rõ ràng hơn. Người Trung Quốc thường chỉ có
thể làm kỹ thuật, cùng lắm là lên quản lý một bộ phận kỹ thuật nào đó, dường
như không mấy ai làm được giám đốc công ty lớn.”
Sự so sánh học sinh Trung Quốc với học sinh
Mỹ trong bài báo trên khiến chúng ta liên tưởng đến khác biệt về cách học giữa
trường Việt Nam với trường quốc tế ở nước
ta mà nhiều người đã đề cập. Trong khi các nhà giáo dục ở Việt Nam và Trung
Quốc, xuất phát từ quan niệm về mục tiêu đào tạo nhân lực của mình, cố gắng
hoạch định và áp dụng đồng loạt những chương trình giáo dục đầy đặn, chi tiết
với hệ thống kiến thức, kỹ năng được cho là cần thiết đối với tất cả các công
dân tương lai thì người Mỹ (và các nước phương Tây nói chung) chú trọng phát
huy sự năng động và sở nguyện, sở trường, của mỗi học sinh, tạo điều kiện cho
họ tự hoàn thiện nhân cách của mình. Kết quả là học sinh Việt Nam, Trung Quốc
có thể được học nhiều kiến thức hơn, trong những lớp học quy củ hơn nhưng học
hành kém hứng thú và ít hiệu quả hơn vì chỉ học một cách thụ động những điều đã
được cung cấp sẵn trong sách giáo khoa, và nếu có được tổ chức hoạt động thì phần
lớn các trường hợp chỉ mang tính hình thức để cả lớp cùng đạt đến một đáp số
chung như đã định hình trong sách.
2.3. Ở nước ta, ngay
từ lúc khai sinh nhà nước dân chủ cộng hoà, mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại “những lời bất hủ” trong bản Tuyên ngôn độc
lập của nước Mỹ : “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Điều đó chứng tỏ ngay
từ khi lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính quyền cách mạng đã có nhận thức đúng
đắn về các quyền của con người, trong đó có quyền tự do phát triển.
Tuy
nhiên, do chiến tranh xâm lược bùng nổ ở miền Nam ngay sau Ngày Độc lập rồi lan
rộng ra cả nước và tồn tại hai chính thể đối địch kéo dài tới 30 năm, đồng thời
do chậm khắc phục tư tưởng phong kiến và cũng do nhận thức ấu trĩ nên tư tưởng
tiến bộ về quyền con người chưa được triển khai đầy đủ trong thực tiễn.
Điều 50 Hiến pháp hiện hành tái khẳng định quyền con người nhưng thống
nhất nó với quyền công dân : “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện
ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Một trong những quyền
công dân được Hiến pháp ghi nhận là quyền học tập phù hợp với điều kiện, năng
lực của mình : “Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.
HS có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển
tài năng [...] Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp."
(Điều 59).
Tuy nhiên, cho đến nay, trong
mục tiêu giáo dục, sự phát triển của cá
nhân vẫn chỉ được đề cập như là phẩm chất mà công dân cần có để thực thi nghĩa
vụ xã hội của mình. Chưa bao giờ chúng ta nhận thức rõ sự phát triển đa dạng về
nhân cách của người học là một mục tiêu giáo dục, mặc dù không ít lần bày tỏ mong
muốn “biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục”.
Theo Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 2 BCH TW Đảng khoá VIII, “nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là
nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát
huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân
loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng
và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên như lời dặn của Bác Hồ.”
Điều
2 Luật Giáo dục cũng quy định : “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Với mục tiêu như trên, trong hàng chục năm qua, giáo dục Việt Nam đã đào
tạo và cung cấp cho xã hội đội ngũ nhân lực về cơ bản đáp ứng được yêu cầu sử
dụng của các ngành nghề, cơ quan, đơn vị. Nhưng vì chỉ chú trọng mục tiêu phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội trong khi dự báo nhu cầu sử dụng nhân lực còn
yếu nên nhân lực đào tạo ra không tránh khỏi tình trạng vừa thiếu vừa thừa. Nội
dung các môn học, kể từ bậc học phổ thông đến đại học chưa thoát khỏi tình
trạng kinh viện ; phương pháp giáo dục ít quan tâm đến cá thể hoá ; năng lực
thực tiễn, năng lực sáng tạo của người học yếu v.v… – đó cũng là những hệ quả của đường lối dạy học
mang tính chất “phân phối”, “cào bằng”.
2.4. Để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo Nghị
quyết của Đại hội XI, trước hết, cần đổi mới mục tiêu giáo dục. Lúc này, một
mục tiêu giáo dục dễ đạt được sự đồng thuận hơn cả là kết hợp hài hoà sự phát
triển tự do của cá nhân với sứ mệnh đào tạo nhân lực phục vụ xã hội.
Một
con đường như thế đã được Jean-Jaques Rousseau (1712 - 778) thể hiện trong các công
trình của mình. Trong tác phẩm Khế ước xã
hội, ông cổ vũ cho việc xây dựng con người công dân, con người tập thể,
phục vụ nhà nước và xã hội ; còn trong tác phẩm Emile [11], ông lại
thể hiện quan điểm xây dựng con người cá nhân, riêng biệt.
Một
số học giả cho rằng dường như Rousseau dao động giữa hai con đường. Nguyễn Mạnh
Tường phân tích : “Thực ra các mâu thuẫn chỉ là bề ngoài. Cả hai tác phẩm đều
xuất phát từ một đường lối chung : nỗ lực tìm kiếm tự do, tự do chính trị cho
nông dân, tự do thiên nhiên cho trẻ em, và mặt khác, cả hai tác phẩm đều tìm
cách xác định bản chất chân thật của con người và xã hội. Cần nói thêm rằng
[...] Rousseau trong cuốn Emile tuy
thực hiện một đường lối giáo dục cá biệt nhưng giáo dục cho Emile những đức
tính xã hội để khi thời cơ đến, Emile trở thành một công dân tốt.” [12]
Chính
K. Marx cũng đã từng khẳng định : “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.” [13] Ý kiến của
nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản là một gợi ý tốt cho việc xây dựng một mục tiêu
giáo dục hài hoà như chúng tôi đã trình bày.
3. Mục tiêu giáo
dục mới tất yếu dẫn đến quan niệm mới về định hướng phát triển của giáo dục
nước nhà. Theo chúng tôi,
nền
giáo dục Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới phải là một
nền giáo dục thực học và dân chủ. Dưới đây là nội
dung chủ yếu của hai định hướng phát triển này :
3.1. Trước hết, nói về thực học.
3.1.1. Để đáp ứng mục tiêu đào tạo nhân lực phục vụ xã
hội, thực học có nghĩa là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong những
ngành kinh tế - kỹ thuật có tính ứng dụng cao. Nước ta còn nghèo, lại là nước
đi sau và muốn nhanh chóng bắt kịp các nước đi trước nên không thể phát triển
dàn trải. Trong vòng 50 năm tới, cần tập trung đào tạo nhân lực cho những ngành
trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có khả năng tăng cường sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Đối với các ngành khoa học cơ bản, bên cạnh việc đáp ứng nhu
cầu nâng cao dân trí, chỉ cần đầu tư đào tạo số lượng ít những người thực sự có
năng khiếu, sở trường để bồi dưỡng nhân tài.
Với tư tưởng thực học, hệ thống giáo dục
phổ thông cũng cần được xem xét lại. Việc kéo dài thời gian học phổ thông tới
12 năm tỏ ra không phù hợp với hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện
kinh tế của đất nước nói chung. Theo quan điểm của chúng tôi, nên thiết kế hệ
thống này theo công thức 9 + 2, tức là đại bộ phận học sinh chỉ học chương
trình giáo dục cơ bản 9 năm ; sau đó, tuỳ sở nguyện, sở trường và kết quả học
tập mà vào trường trung học nghề hoặc trung học phổ thông 2 năm với chương
trình tự chọn gồm các môn phục vụ chuyên ngành tương lai do người học tự xác
định.
3.1.2. Để đáp ứng mục tiêu phát
triển và hoàn thiện nhân cách phù hợp với sở nguyện, sở trường của mỗi cá nhân,
thực học có nghĩa là chuyển đổi từ chương trình theo định hướng nội dung
(content-based approach) thành chương trình theo định hướng năng lực
(competency-based approach).
Xây dựng chương trình theo định hướng nội
dung là định ra trong chương trình một hệ thống các đơn vị kiến thức, kỹ năng
cần trang bị cho người học. Đây là kiểu chương trình xác định đầu vào. Cách
tiếp cận này thiên về lý thuyết, kết quả là người học được trang bị kiến thức có
tính hệ thống nhưng yếu về kỹ năng thực hành, đặc biệt là kỹ năng sống.
Xây dựng chương trình theo định hướng năng
lực là định ra một khung năng lực và hoạt động làm nảy sinh ở người học nhu cầu
khám phá thế giới, khám phá năng lực của
bản thân để phát triển. Đây là kiểu chương trình xác định đầu ra. Việc xác định
đầu ra, tức là lập danh sách những năng lực cần hình thành và phát triển ở người
học không dễ dàng vì nó không phải là một hệ thống có sẵn như khái niệm khoa
học. Chương trình chỉ có thể xác định bộ khung năng lực và hoạt động để mỗi HS,
thông qua hoạt động học tập tự phát hiện và phát triển sở nguyện, sở trường của
mình mà trở thành một thực thể với năng lực riêng. Nhà trường không có mục đích
và cũng không có khả năng tạo ra những lớp người có năng lực giống hệt nhau như
những chiếc máy trong sản xuất công nghiệp. Ngược lại, chính tính đa dạng của
các cá nhân sẽ tạo nên sự hài hoà và sức mạnh tổng hợp của xã hội.
Chương trình theo định hướng năng lực đòi
hỏi một phương pháp giáo dục thích hợp – đó là phương pháp tổ chức hoạt động. Bởi
vì năng lực không thể được hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng
thụ động. Kiến thức có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng người học chỉ làm
chủ được những kiến thức này khi chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý
thức của mình. Kỹ năng cũng vậy, muốn phát triến nó, người học phải được hoạt
động trong môi trường gần với môi trường thực dưới sự hướng dẫn của người dạy. Tương
tự, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được hình thành
chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong thực tế. Dạy học với chương trình theo
định hướng năng lực không chỉ đảm bảo kết quả đào tạo bền vững mà còn tiết kiệm
thời gian, tiết kiệm nguồn lực trong đào tạo, đồng thời giảm áp lực làm việc,
áp lực học hành đối với người dạy và người học.
Đối với lĩnh
vực giáo dục đại học và dạy nghề, trong đổi mới phương pháp dạy học, cần tăng
cường thời gian thực hành cho người học, gắn kết trường học với đơn vị sử dụng
lao động để người học có điều kiện vừa học vừa làm. Ở CHLB Đức, việc đào tạo kỹ sư thực hành và công nhân
thường có sự liên kết giữa nhà nước với doanh nghiệp theo tỷ lệ doanh nghiệp bỏ
ra 70%, nhà nước 30% tổng chi phí đào tạo. Trong quá trình đào tạo, học sinh có
70% thời gian học tại doanh nghiệp, 30% tại trường. Thời gian học tại doanh
nghiệp, học sinh được tiếp cận với toàn bộ thiết bị, công nghệ mới, thậm chí
được doanh nghiệp trả lương khi đáp ứng được yêu cầu của công việc. Đây là một
kinh nghiệm quý nên được tham khảo trong giáo dục đại học và dạy nghề.
3.2. Thứ hai, nói về dân chủ.
3.2.1. Dân chủ
là một thuộc tính tất yếu của giáo dục để thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ
nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng một xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh”,
đồng thời để đảm bảo cho sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của mỗi người phù
hợp với sở nguyện, sở trường và điều kiện của họ.
3.2.2. Dân chủ trước hết là đảm bảo quyền và trách
nhiệm của xã hội tham gia phát triển và quản lý giáo dục. Trên phương diện này,
dân chủ đồng nghĩa với xã hội hoá, nhưng xét về mặt thuật ngữ thì
sử dụng thuật ngữ dân chủ hợp lý hơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra
rằng xã hội hóa (socialisation) là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được hiểu là quá trình con người liên tục
tiếp thu văn hóa vào nhân
cách của mình để sống trong xã hội
như là một thành viên của xã hội ấy. Xã hội hoá trước tiên được thực hiện trong
gia đình, rồi được tiếp tục thực hiện trong nhà trường và các nhóm xã hội -
nghề nghiệp. Giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường thường làm công việc xã
hội hoá trước (anticipatory socialisation) ; trong nhiều trường hợp, nhất
là khi đã vào đời hoặc sống trong những hoàn cảnh đặc biệt, người ta phải đào
thải một số giá trị cũ, tiếp thu những giá trị mới để hoàn thiện bản thân, tức
là được xã hội hoá lại (resocialisation). Để tránh hiểu ngược với cách
hiểu đã phổ biến từ lâu trong nhân loại học và xã hội học, chúng ta cần thay
thuật ngữ xã hội hoá trong cụm từ xã hội hoá giáo dục bằng thuật
ngữ dân chủ (hoặc dân chủ hoá).
Nội dung xã
hội hoá (dân chủ hoá) giáo dục đã được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết
05/2005/NQ-CP của Chính phủ. Nhưng trong suốt thời gian qua, xã hội hoá chỉ được triển khai theo hướng
lập chế độ học phí để người dân chia sẻ gánh nặng cùng Nhà nước nhằm duy trì
hoạt động giáo dục và thu hút vốn từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để
mở trường, còn về việc tham gia quản lý giáo dục thì cho đến nay các tầng lớp
nhân dân chỉ có thể thực hiện quyền của mình thông qua các cơ quan đại diện
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và lên tiếng trên báo chí, chứ chưa có
quy định nào về cơ chế thực hiện quyền và trách nhiệm của cộng đồng dân cư giám
sát hoạt động của cơ sở giáo dục ở địa phương mình. Quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục, quyền chủ động của giáo viên và
quyền của người học đóng góp vào quá trình thực hiện hoạt động giáo dục chưa
được đảm bảo bằng những chính sách rõ ràng, khả thi.
Việc huy động sự tham gia phát triển giáo dục cũng còn nhiều hạn chế, chưa
thể hiện bàn tay điều tiết của Nhà nước để bổ sung cho những khiếm khuyết của
kinh tế thị trường. Trong khi thu hút các nguồn vốn đầu tư mở trường, Nhà nước
chưa có chính sách ưu đãi thích hợp để khuyến khích đầu tư vào những vùng khó khăn
(miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa), những lĩnh vực thiếu hấp dẫn (giáo dục
mầm non, dạy nghề) hoặc những lĩnh vực cần ưu tiên (các ngành có tính ứng dụng
cao) và cũng chưa có chính sách linh hoạt để điều tiết kinh phí cho những vùng,
những lĩnh vực khó có khả năng thu hút đầu tư xã hội.
Vấn đề xây dựng chính sách thích hợp đối với các cơ sở giáo dục hoạt động
vì mục đích lợi nhuận và không vì mục đích lợi nhuận cũng chưa được xử lý một
cách đúng đắn. Văn bản quy phạm pháp luật mới nhất đề cập vấn đề này là Luật Giáo dục đại học vừa
được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2012 vẫn thừa nhận cơ sở giáo
dục chia lợi tức cho cổ đông là cơ sở giáo dục hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận và vẫn dành thẩm quyền quyết định đường
lối phát triển nhà trường cho các cổ đông theo mức góp vốn. Những nguyên
tắc này không khác gì nguyên tắc
tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần.
Thế nhưng, theo quy định tại khoản 3 Điều 12 thì các cơ sở giáo dục đó vẫn được hưởng “chính sách ưu tiên về thuế, đất đai, tín dụng, đào tạo cán bộ”
như các cơ sở thật sự hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
Trong đổi mới giáo dục lần này, cần xây dựng lại chính
sách thích hợp để khuyến khích sự ra đời của các
cơ sở giáo dục hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
3.2.3. Một nội dung
quan trọng khác của xã hội hoá (dân chủ hoá) là tạo điều kiện để mỗi người
trong xã hội hưởng thụ thành quả giáo dục (xây dựng xã hội học tập) trong thời
gian qua cũng chưa được quan tâm.
Mặc dù các nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng và đề ra
những định hướng phát triển xã hội học tập nhưng việc triển khai trong thực tế
chưa có chuyển biến đáng kể. Số lớp “vừa học vừa làm” (tại chức) mở ra nhiều,
người đi học đông, nhưng chất lượng thường không đảm bảo. Động cơ mở lớp, động
cơ đi học phần lớn không đúng như mục đích xây dựng xã hội học tập. Để tiến tới một xã hội học tập, trong đó người lao động có
thể học bất kỳ một học phần nào nhằm nâng cao hiểu biết và kỹ năng, phục vụ cho
công việc của mình, không nên quan niệm cứng nhắc giáo dục thường xuyên phải tổ
chức thành những lớp học riêng, học phải lấy bằng, mà cần quan niệm là tuỳ điều
kiện thời gian của mình và khả năng tiếp nhận của cơ sở giáo dục, người học có
thể theo học cùng sinh viên chính quy hoặc học lớp riêng. Nhưng để đảm bảo giáo
dục thường xuyên có mặt bằng ngang với mặt bằng đào tạo chính quy, những người
có nguyện vọng học lấy bằng hay tín chỉ cần thi học phần, thi tốt nghiệp chung
với sinh viên chính quy.
3.2.4. Về nội dung và phương
pháp dạy học, dân chủ thể hiện ở sự khai phóng, tức là cởi mở về tư tưởng,
học thuật, tạo điều kiện cho người học sáng tạo và phát triển phù hợp với khả
năng, nguyện vọng của mình. Có khai phóng thì giáo dục và xã hội mới tạo ra
được những lớp người dám nghĩ, dám làm.
Nhiều học giả nhận xét rằng người Việt Nam
chúng ta thường tiếp thu nhanh và có nhiều sáng kiến nhưng năng lực tưởng tượng
không cao, do đó ít có khả năng tạo ra những bước đột phá. Từ mô hình xã hội
đến phát triển kinh tế, công nghệ, chúng ta thường nhập khẩu hoặc mô phỏng sáng
kiến nước ngoài. Nguyên nhân hẳn không phải là hạn chế về năng lực tư duy mà là
ở sự kìm hãm tự do tư tưởng và sự thiếu thốn về cơ sở vật chất kéo dài hàng
nghìn năm từ chế độ phong kiến phương Đông cho đến trước thời kỳ Đổi mới. Hơn
lúc nào hết, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là thời cơ thuận lợi để giải
phóng tư duy con người khỏi tầm nhìn hạn hẹp, tạo ra những bước ngoặt về chất
lượng nhân lực, góp phần thúc đầy phanh sự phát triển của đất nước và tiến bộ
của nhân loại.
4. Giáo dục là một bộ phận của xã hội, vì vậy sự
nghiệp đổi mới lĩnh vực này chỉ có thể thành công với điều kiện kinh tế - xã
hội được đổi mới.
Có thể thấy, cho đến nay, nguyên nhân sâu
xa nhất hạn chế chất lượng giáo dục của nước ta là nền kinh tế và thị trường
lao động chưa tạo được sức hấp dẫn và áp lực buộc giáo dục phải thay đổi. Với một
nền kinh tế chỉ dựa trên lắp ráp, gia công, khai khoáng, nông nghiệp cổ truyền
cùng dịch vụ nhà hàng, khách sạn, chuyển nhượng đất đai thì mục tiêu đào tạo
đội ngũ nhân lực chất lượng cao không có cơ sở thực tế, do đó giáo dục sẽ không
có động lực thực hiện mục tiêu này. Bên cạnh đó, nền kinh tế, nhất là khu vực
kinh tế nhà nước, chưa vận hành theo đúng quy luật kinh tế thị trường, từ đó đẻ
ra một thị trường lao động không công bằng và một nền giáo dục ứng thí, đi học
chỉ cốt lấy bằng nhằm đáp ứng “tiêu chuẩn cán bộ'', chứ không cần thực học. Phải
tìm cách thích nghi với một thị trường lao động như vậy, lớp trẻ nếu không bị
tha hoá về nhân cách thì cũng ít có động cơ chính đáng trong học tập, rèn luyện
để hoàn thiện nhân cách của mình. Cho nên, muốn thực hiện được mục tiêu giáo
dục và nâng cao chất lượng giáo dục thì Nhà nước phải đẩy mạnh cải cách kinh tế
và đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ ; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng
chống tham nhũng, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh, nhân ái, tạo môi trường
xã hội tích cực để hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho tuổi trẻ học
đường.
Đổi mới một lĩnh vực rộng lớn, liên quan
đến hàng triệu giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và hàng chục triệu người học
như giáo dục không phải dễ dàng. Nhưng đó là công việc nhất thiết phải làm để
thực hiện ước nguyện đưa dân tộc ta ''bước tới đài vinh quang, sánh vai cùng
các cường quốc năm châu'' như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bức thư gửi học
sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới.
[1] Viện Ngôn ngữ học. Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng, Trung
tâm Từ điển học, 2005, 118.
[2] Theo Từ điển tiếng Việt, “toàn diện” có nghĩa là “đầy đủ các mặt, không
thiếu mặt nào” (Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 1003).
[4] Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa,
Sđd, tr. 158.
[5] Nguyễn Mạnh Tường,
Sđd, tr. 322.
[6] Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên
soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 3. NXB Từ điển bách khoa, HN, 2003, tr. 508.
[7] Dẫn theo Nguyễn
Mạnh Tường, Lí luận giáo dục châu Âu (thế
kỉ XVI, XVII, XVIII). NXBGD, HN, 1995, tr. 228 - 229.
[8] Dẫn theo Nguyễn
Mạnh Tường, Sđd, tr. 224.
[9] Lương Vị Hùng,
Khổng Khang Hoa, Sđd, tr. 148. Có lẽ xuất phát từ niềm tin này, các trường đại
học danh tiếng của Anh như Đại học Oxford, Đại học Cambridge đã có những quy định
để bảo vệ những sinh viên không quan tâm đến những điều vụn vặt, có thói quen
kỳ quặc nào đó. Cho đến nay, Đại học Oxford đã đào tạo được 29 vị Thủ tướng của
nước Anh ; còn Đại học Cambridge cũng đã đào tạo được 63 người đoạt giải Nobel
[13] C.Mác và Ph. Angghen. Toàn tập, t.4. NXB Chính trị
Quốc gia, HN, 1995, tr.628.
Em e rằng những người có trách nhiệm đã đọc, thậm chí là đọc kĩ bài viết của GS nhưng họ sợ trách nhiệm, hoặc còn nhiều việc khác "đáng quan tâm hơn" nên cố tình lờ đi. Em còn nhớ lần dự thay sách THCS của lớp tập huấn báo cáo viên của Bộ, GS đăng đàn hai tiếng mà cả hội trường không ai làm việc riêng. Đáng tiếc cho nền giáo dục nước nhà...
Trả lờiXóa