Thái Bá Tân
___________
1
LỜI MÀO ĐẦU
Chào các cháu thân mến.
Ông là Thái Bá Tân,
Còn gọi Ông Tân Béo,
Nghề - làm thơ, viết văn.
Trước ông cũng dạy học,
Nhưng lâu rồi, hôm nay
Ông có chuyện muốn nói
Với các cháu thế này.
Người ta bảo các cháu
Ngại môn Sử, đúng không?
Thế thì thật đáng tiếc,
Vì môn ấy, theo ông
Là môn rất bổ ích,
Dễ học và cực hay.
Ông ngày bé, thú thật,
Mê học nó hàng ngày.
Vì sao? Vì học nó
Như một chuyến đi xa,
Ngược thời gian, tìm hiểu
Lịch sử của nước nhà.
Mà chuyến đi vui lắm,
Chẳng tốn kém một đồng.
Ông sẽ dẫn các cháu,
Ta cùng đi, thích không?
Vừa đi ông vừa kể,
Bảo đảm không ai buồn.
Kể bằng thơ dễ hiểu.
Nếu cần, ông thề luôn.
Sẽ lâu và xa đấy.
Bốn nghìn năm cơ mà.
Bốn nghìn năm lịch sử
Đất nước Việt Nam ta.
Ông sẽ theo trình tự
Kể từ những ngày đầu
Nhân dân ta dựng nước
Rồi kể tiếp về sau.
Suốt bốn nghìn năm ấy
Tổ Quốc ta thân yêu
Trải qua bao biến cố.
Nhiều lắm, nhiều, rất nhiều.
Nhiều triều đại tiếp nối.
Nhiều chiến thắng vẻ vang.
Nhiều anh hùng, hào kiệt.
Nhiều trang sử huy hoàng…
Tất cả những cái ấy
Ta phải biết, đúng không?
Biết để hiểu đất nước,
Tự hào về cha ông.
Lần lượt ông kể hết.
Hơn thế, dọc đường đi
Ông kể xen cổ tích,
Toàn truyện hay, li kỳ.
Hoặc có thể là truyện
Các danh nhân, anh hùng.
Nước ta, người như thế
Thì ôi, nhiều vô cùng.
Các cháu đồng ý chứ,
Sao cứ phải chờ lâu?
Làm gì là làm tới.
Nào, chúng ta bắt đầu.
2
VŨ TRỤ VÀ TRÁI ĐẤT
Đã bao giờ các cháu
Tự hỏi mình câu này:
“Từ đâu ta có được
Thế giới như hôm nay?”
Một câu hỏi thú vị,
Được đặt ra từ lâu.
Bây giờ ông sẽ nói,
Từ sơ khai, ban đầu.
Mười bốn tỉ năm trước,
Có một cái Big Bang,
Tức là Vụ Nổ Lớn,
To lắm, thật kinh hoàng.
Cái Big Bang lớn ấy
Làm vũ trụ nở ra,
Tạo nên các thiên thể,
Như Trăng, Sao, Thiên Hà…
Mười tỉ năm sau đó
Trái Đất mới ra đời,
Như một hành tinh nhỏ
Bay xung quanh Mặt Trời.
Mặt Trời về thực chất
Chính là một Ngôi Sao,
Vì nó tự phát sáng,
Lơ lửng trên trời cao.
Thiên thể bay quanh nó
Được gọi là Hành Tinh,
Tự chúng không phát sáng,
Như Trái Đất chúng mình.
Mặt Trời có tất cả
Tám Hành Tinh khác nhau.
Rất khác về kích thước,
Tính chất và sắc màu.
Đó chính là Sao Hỏa,
Sao Mộc, Hải, Thiên Vương,
Các sao Thổ, Kim, Thủy
Và Trái Đất thân thương.
Trong số tám “Sao” ấy,
(Chính xác là Hành Tinh,
Vì do ta gọi chệch)
Có Vệ Tinh của mình.
Vệ Tinh là gì nhỉ?
Là thiên thể bay quanh
Một Hành Tinh nào đó.
Tất nhiên bay rất nhanh.
Ngoài Vệ Tinh nhân tạo,
Trái Đất có Mặt Trăng,
Một Vệ Tinh tuyệt đẹp,
Ta quen gọi Chị Hằng.
Chị Hằng không tỏa sáng.
Hấp thụ ánh Mặt Trời,
Đêm, Chị phản chiếu lại,
Làm say lòng loài người.
Theo các nhà khoa học,
Trái Đất của chúng ta
Hình thành từ mảnh vỡ
Của Mặt Trời văng ra.
Đến lượt mình, Trái Đất
Cũng có một miếng văng,
Cùng thời gian, cô lại
Và rồi thành Mặt Trăng.
Vậy, như ông đã nói,
Sau cú nổ kinh hoàng,
Ta gọi Vụ Nổ Lớn,
Tây thì gọi Big Bang,
Tỉ tỉ Sao xuất hiện,
Phân bố ở khắp nơi.
Mỗi Sao là một Hệ.
Ta thuộc Hệ Mặt Trời.
Nhiều Hệ gộp nhau lại
Thành một chùm Thiên Hà.
Ngân Hà là tên gọi
Thiên Hà của chúng ta.
Vũ Trụ nó lớn lắm.
Lớn vô tận, vô cùng,
Đến mức ông cũng chịu,
Không thể nào hình dung.
Cùng với sự lớn ấy
Là khối lượng khổng lồ
Các Thiên Hà, các Hệ
Đủ kích thước nhỏ to.
Có chuyện này thật lạ,
Thoạt nghe tưởng chuyện cười,
Rằng Sao trong Vũ Trụ
Cũng sinh, chết, như người.
Theo các nhà khoa học,
Năm tỉ năm nữa thôi
Mặt Trời ngừng phát sáng
Và sẽ chết, than ôi,
Trái Đất ta, thật tiếc,
Cũng chết theo, tuy nhiên,
Từ giờ đến lúc ấy
Còn lâu, đừng buồn phiền.
Cũng có thể khoa học
Giúp chúng ta “dọn nhà”
Sang sống ở nơi khác
Trong Vũ Trụ bao la.
Vậy là hết lo nhé,
Ngoài lo học thành người.
Nhất là học môn Sử.
Tuyệt đối không được lười.
Tiếp đến ông sẽ nói
Một đề tài rất hay,
Là do đâu xuất hiện
Sự sống như ngày nay.
Giờ thì như đã hứa,
Để các cháu nghỉ ngơi,
Ông kể một câu chuyện,
Một bài học ở đời.
Chuyện về một cậu bé
Lười đọc sách, tiếc sao.
Rồi các cháu sẽ hiểu
Chuyện kết thúc thế nào.
Đúng, đọc sách cần lắm.
Mà phải đọc hàng ngày.
Nào, lắng nghe ông kể.
Câu chuyện ấy thế này.
CUỐN SÁCH VÀ CHIẾC GIỎ ĐỰNG THAN
Theo người ta kể lại,
Xưa có người đàn ông
Sống với một cậu bé
Trong ngôi nhà ven sông.
Đó là hai ông cháu.
Người ông tóc bạc phơ.
Cậu bé mới mười tuổi.
Quang cảnh đẹp, nên thơ.
Hàng ngày ông đọc sách.
Vâng, đọc sách hàng ngày.
Có nhiều cuốn sách cổ
Gáy bọc da, rất dày.
Còn cậu bé đi học,
Cũng hàng ngày, buổi chiều,
Khi làm xong bài tập,
Cậu chơi bóng, thả diều.
Cũng có hôm chơi chán,
Cậu đọc sách cùng ông,
Nhưng đọc không hứng lắm,
Và lúc hiểu, lúc không.
“Ông ơi, sao thế nhỉ, -
Cháu đọc thấy không hay,
Lại buồn ngủ, không hiểu.
Mà ông đọc suốt ngày.”
Ông mỉm cười bảo cậu
Lấy chiếc giỏ than đen
Vừa đổ than vào bếp,
Xuống sông xách nước lên.
Cậu vâng lời, rất cố,
Nhưng khi lên đến nơi,
Nước đã chảy ra hết.
Ông cậu lại mỉm cười:
“Thì cháu hãy thử lại.
Lần này đi nhanh hơn.”
Cậu đi gần như chạy,
Mà nước vẫn không còn.
Cậu xách thêm lần nữa,
Mồ hôi chảy thành dòng:
“Không thể dùng chiếc giỏ
Để lấy nước, thưa ông.”
Ông cậu đáp: “Đúng vậy.
Thực ra ông hôm nay
Không muốn cháu lấy nước,
Mà muốn nói điều này:
Giỏ không đựng được nước.
Nhưng giỏ bám than đen,
Sau mấy lần “lấy nước”
Sẽ sạch, trắng dần lên.
Cũng vậy, cháu đọc sách,
Khó hiểu, thấy không cần.
Nhưng cháu kiên trì đọc,
Đầu óc sẽ sáng dần.”
Cậu bé nhìn chiếc giỏ,
Hình như lần đầu tiên,
Thấy nó được nước rửa
Không còn bám bụi đen.
Vâng, ông già nói thế,
Rằng đọc sách rất cần
Tâm hồn và ý nghĩ
Sẽ thanh lọc dần dần.
Từ đó, cậu bé ấy
Chăm đọc sách hàng ngày.
Rồi trở nên thông thái
Tự lúc nào không hay.
3
SỰ SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT
Người ta đã ước tính
Có hàng tỉ Thiên Hà,
Tỉ tỉ ngôi sao sáng
Trong Vũ Trụ bao la.
Tỉ tỉ sao sáng ấy
Có thể có hành tinh,
Tức là có sự sống
Như Trái Đất chúng mình.
Tiếc, đến nay, sự sống
Chưa tìm thấy nơi nào.
Có thể ta đơn độc
Giữa nghìn nghịt trời sao.
Có thể là như vậy.
Có thể không, hãy chờ.
Ông thì nghĩ là có.
Để rồi xem, bây giờ
Ngắn gọn và dễ hiểu,
Bây giờ ông điểm qua
Việc hình thành sự sống
Trên Trái Đất chúng ta.
Hơn bốn tỉ năm trước,
Ông nói rồi, nhớ không,
Đã hình thành Trái Đất,
Một khối lửa rực hồng.
Khối lửa ấy lắng xuống.
Các chất nhẹ nổi lên,
Thành quả cầu rất nóng,
Có bề mặt màu đen.
Rồi quả cầu ấy nguội,
Thành đất, đá nhấp nhô.
Các núi lửa hoạt động,
Liên tục phun bụi tro.
Chính trong bụi tro ấy
Có nhiều khí, về sau
Hình thành nên khí quyển
Bao quanh quả địa cầu.
Rồi đại dương xuất hiện,
Bốn tỉ năm trước đây
Nhờ xuất hiện hơi nước
Và mưa lớn nhiều ngày.
Từ trên cao xuống thấp,
Nước chảy mạnh từng dòng,
Dần dần ăn lõm đất
Và cuối cùng thành sông.
Nửa tỉ năm sau đó
Có sinh vật đơn bào.
Thêm hai tỉ năm nữa
Phát triển thành đa bào.
Rồi xuất hiện động vật,
Gồm các loài giản đơn,
Lúc đầu sống dưới nước,
Rồi thành phức tạp hơn.
Năm trăm triệu năm trước
Có loài cá đầu tiên.
Một thời gian sau đó
Có cỏ trên đất liền.
Các cháu chú ý nhé:
Cá xuất hiện trước cây.
Cá bò lên đất cạn,
Thành động vật sau này.
Trước hết thành bò sát,
Lúc đầu sống lưỡng cư,
Cả dưới nước, trên đất,
Cứ tiến hóa từ từ.
Trong các loài bò sát,
Có một loài rất to,
Là khủng long tiền sử,
Bằng mấy chục con bò.
Hai trăm triệu năm trước,
Tổ tiên xưa của Người
Là động vật có vú
Mới có mặt trên đời.
Chim thì mãi sau đó,
Khoảng năm mươi triệu năm.
Hoa thì còn sau nữa,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Loài khủng long, ta biết,
Tuyệt chủng đã từ lâu,
Sáu lăm triệu năm trước,
Còn chưa rõ do đâu.
4
LOÀI VƯỢN CỔ
Hàng chục triệu năm trước,
Trên trái đất chúng ta
Có một loài vượn cổ,
Thường sống trong rừng già.
Hàng ngày đi bắt thú
Hoặc tìm kiếm thức ăn,
Loài vượn này thích ứng
Với việc đi bằng chân.
Hai chi trước giải phóng
Để cầm nắm, bẻ cây,
Hàng triệu năm phát triển,
Rồi dần dần thành tay.
Thế là Người tối cổ
Cuối cùng đã hình thành.
Đứng thẳng lưng, tay ngắn,
Chân to chắc, bước nhanh.
Họ sống thành từng tốp,
Trên dưới vài chục người.
Ban ngày đi bắt thú
Hay hái hoa quả tươi.
Còn ban đêm họ ngủ
Trong hang, trong lều thô
Dựng bằng cành cây lớn,
Phủ cỏ hoặc lá khô.
Họ đã biết dùng lửa
Để nướng chín thức ăn;
Làm công cụ bằng đá
Giúp cho việc đi săn.
Bốn mươi nghìn năm trước,
Loài Người tối cổ này
Cuối cùng có hình dáng
Giống con người hiện nay.
Họ sinh hoạt theo nhóm,
Khoảng vài chục gia đình,
Có họ hàng gần gũi,
Gọi là Người Thông Minh.
Đó là các thị tộc,
Làm, ăn chung với nhau
Trong chế độ nguyên thủy,
Cái buổi ấy ban đầu.
Thế là ông kể hết
Sơ lược về quá trình
Phát triển của Trái Đất
Đến con người thông minh.
Hiện các nhà khoa học
Chưa nhất trí với nhau.
Nhiều điều còn tranh cãi,
Mà chắc còn cãi lâu.
Tiếp đến ông sẽ nói
Về xã hội loài người
Thời xã hội nguyên thủy
Vốn tồn tại một thời.
5
XÃ HỘI NGUYÊN THỦY
Trong xã hội nguyên thủy,
Mọi người sống với nhau,
Không khái niệm đẳng cấp,
Sang hèn hay nghèo giàu.
Cùng chung sức làm việc,
Không tranh giành miếng ăn.
Không khái niệm bóc lột.
Không ghen ghét, thù hằn.
Vào thời tối cổ ấy
Thức ăn còn chưa nhiều,
Lại sống cùng thú dữ,
Quả khốn khó nhiều điều.
Cùng với sự tiến hóa,
Con người đã khôn dần,
Biết chế tạo công cụ,
Kiếm được nhiều thức ăn.
Họ biết nuôi gia súc,
Trồng ngũ cốc, rau xanh,
Lấy vỏ cây dệt vải,
Làm đồ gốm, đồ sành.
Tuy nhiên, công cụ đá
Dẫu tiến bộ rất nhiều,
Nhưng năng suất lao động
Chẳng hơn được bao nhiêu.
Sáu nghìn năm về trước,
Con người tìm thấy đồng,
Cùng các kim loại khác
Rồi học cách gia công.
Họ chế tao nông cụ,
Các vật dụng trong nhà,
Cả các đồ trang sức,
Xẻ gỗ để dựng nhà.
Nhờ có công cụ mới,
Họ khai phá đất hoang,
Săn bắt nhiều dã thú,
Sản xuất, trao đổi hàng.
Rồi hàng hóa, lương thực
Được làm ra cuối cùng
Vừa nhiều vừa đa dạng,
Vượt quá mức tiêu dùng.
Số lượng dư thừa ấy
Được những người thông minh
Hay khỏe mạnh chiếm giữ
Làm của riêng cho mình.
Họ ngày càng giàu có,
Không cùng làm, cùng ăn,
Mà trở thành bóc lột,
Và thế là dần dần
Một giai cấp xuất hiện,
Sống bằng bóc lột người.
Xã hội cũ tan rã,
Xã hội mới ra đời.
*
Cái xã hội nguyên thủy,
Dạng xã hội đầu tiên,
Đại khái là thế đấy,
Như ông vừa kể trên.
Mai, trước khi kể tiếp,
Về lịch sử nước nhà,
Ông sẽ điểm ngắn gọn,
Kiểu cưỡi ngựa xem hoa,
Một số quốc gia cổ,
Cả Đông và cả Tây.
Các cháu đồng ý chứ?
Thôi, tạm dừng hôm nay.
À mà khoan, gượm đã,
Có chuyện ngụ ngôn này,
Ông kể cho các cháu,
Bảo đảm là rất hay.
Ông Esop viết nó
Cách đây ba nghìn năm,
Một nô lệ Hy Lạp,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Các cháu lắng nghe nhé,
Vừa hay vừa thông minh.
Nghe xong, phải cố gắng
Rút bài học cho mình.
HAI CON DÊ QUA CẦU
Có một con Dê Trắng
Và một con Dê Đen
Đi qua chiếc cầu nhỏ,
Hai con từ hai bên.
Chẳng may, cầu thì hẹp,
Sông phía dưới lại sâu.
Ai cũng tranh đi trước,
Quyết không chịu nhường nhau.
Dê Trắng nói: “Anh bạn,
Anh phải nhường tôi đi.”
Dê Đen đáp: “Ngược lại.
Nhường ư? Anh nói gì?”
Cả hai con cứ bước,
Không ai chịu nhường ai,
Rồi húc nhau ghê gớm,
Rồi rơi xuống cả hai.
Từng có chú Dê Trắng
Và Dê Đen, buồn sao,
Nay ở khúc sông ấy
Không có chú Dê nào.
*
Dê hay Người cũng vậy,
Đi đường phải nhường nhau.
Nếu có chậm một chút,
Cũng chẳng chết ai đâu.
6
CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI
Vào cuối thời nguyên thủy,
Cư dân sống rất đông
Ở những vùng đất lớn
Dọc theo các dòng sông,
Như sông Nin Ai Cập,
Sông Dương Tử, Trường Giang,
Trung Hoa thời cổ đại.
Ở Ấn Độ - sông Hằng.
Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
Hai sông nặng phù sa,
Ở khu vực Tây Á,
Còn gọi là Lưỡng Hà.
Nhờ nông cụ cải tiến,
Đất rộng và phì nhiêu,
Nông nghiệp phát triển mạnh,
Năng suất cao hơn nhiều.
Đặc biệt là lúa gạo,
Cả khoai sắn, rau, dưa.
Chăn nuôi cũng phát triển,
Đã có phần dư thừa.
Vậy là có chiếm hữu -
Có người không đủ ăn,
Có người thành giàu có,
Giai cấp hình thành dần.
Năm nghìn năm về trước,
Lần đầu tiên, quốc gia
Hình thành ở Ai Cập,
Trung Quốc và Lưỡng Hà.
Ở các quốc gia ấy
Dân sống bằng nghề nông,
Nhưng họ không có ruộng,
Chỉ là người làm công.
Sau mỗi mùa thu hoạch
Họ phải nộp, trung bình,
Một phần ba sản phẩm
Cho chúa đất của mình.
Ngoài ra phải lao dịch,
Tức là làm không công
Cho nhà giàu, quí tộc,
Và cho cả cộng đồng.
Bọn nhà giàu, quí tộc
Không làm việc chân tay,
Vì có người hầu hạ
Suốt cả đêm lẫn ngày.
Đó là các nô lệ,
Vốn là những tù binh,
Những người nghèo bị ép
Bán sức để nuôi mình.
Đứng đầu lớp quí tộc
Có ông vua, ông này
Nắm hết mọi quyền lực
Trong mọi việc hàng ngày.
Hơn thế, vua tự nhận
Là thánh thần, hơn người.
Trung Quốc là Thiên Tử,
Nôm na là con trời.
Còn ở nước Ai Cập
Vua là Pha-ra-ông,
Tức là “ngôi nhà lớn”.
Các cháu thấy kỳ không?
Để giúp việc vua ấy,
Một bộ máy chính quyền
Do quí tộc nắm giữ,
Suốt từ dưới lên trên.
Chúng bắt dân đóng thuế,
Bắt đi lính, bắt phu,
Xây cung điện, ai chống
Sẽ bị giết, bỏ tù…
*
Vậy là ông đã nói
Ngắn gọn trong mấy dòng
Về ba quốc gia cổ,
Tất cả đều Phương Đông.
Giờ các cháu nghe tiếp
Về hai nước Phương Tây,
Rô-ma và Hy Lạp,
Được hình thành thế này.
Có hai bán đảo nhỏ
Ở miền Nam châu Âu,
Nhô ra Địa Trung Hải.
Ở nơi ấy, từ lâu,
Hơn ba nghìn năm trước
Hình thành hai quốc gia,
Là Hy Lạp cổ đại
Và nhà nước Rô-ma.
Đất ở đây không tốt
Như các nước Phương Đông,
Nên người dân buộc phải
Tìm giống và chọn trồng
Nhiều cây lưu niên phụ,
Như ô-liu và nho.
Chúng không cần nhiều nước,
Nhưng quả mọng và to.
Đặc biệt hai nước ấy
Không chỉ giỏi nghề nông,
Còn giỏi nghề làm rượu
Và nhiều nghề thủ công,
Như nghề luyện kim loại
Làm công cụ, nữ trang,
Nghề thủy tinh, gốm sứ,
Cả nghề tìm, đãi vàng.
Rô-ma và Hy Lạp
Có nhiều cảng nước sâu,
Nên buôn bán phát triển,
Tấp nập thuyền và tàu.
Xã hội hai nước ấy
Gồm có hai loại người -
Chủ nô và nô lệ.
Tỉ lệ một trên mười.
Nô lệ phải làm việc
“Như nô lệ”, tất nhiên.
Bị coi như súc vật,
Không cơm áo, gạo tiền.
Chủ nô, tức quí tộc,
Lại sung sướng cực kỳ.
Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
Không động tay làm gì.
Nô lệ đã khởi nghĩa
Rất nhiều lần ở đây,
Vì họ không cam chịu
Cuộc sống bất công này.
*
Vào buổi bình minh ấy,
Các quốc gia cổ xưa
Đạt được những thành tựu,
Cũng không phải loại vừa.
Trung Quốc có âm lịch,
Mười hai tháng một năm.
Ba mươi ngày một tháng,
Tính toán cả ngày rằm.
Họ có đồng hồ nước,
Đồng hồ cát để bàn
Để đo và tính toán
Giờ giấc và thời gian.
Người Phương Đông thời cổ
Nghĩ ra chữ tượng hình
Để ghi lại cảm nghĩ
Và văn hóa của mình.
Trong lĩnh vực toán học,
Người Lưỡng Hà là người
Nghĩ ra các con số
Từ một cho đến mười.
Những con số đơn giản
Các cháu dùng ngày nay.
Đơn giản như khi đếm
Mười ngón trên hai tay.
Trong khi người Ai Cập
Lại tìm ra số Pi,
Vì họ giỏi Hình Học,
Chính xác đến lạ kỳ.
Trong lĩnh vực xây dựng,
Họ để lại cho ta
Rất nhiều Kim Tự Tháp,
Thành quách ở Lưỡng Hà.
Người Rô-ma, Hy Lạp
Vào thời ấy mịt mùng
Đã có bảng chữ cái
Nay nhiều nước vẫn dùng.
Trong lĩnh vực khoa học,
Như Toán, Sử, thơ văn,
Vật Lý, Triết, Hình Học,
Điêu Khắc, Địa, vân vân,
Xuất hiện nhiều tên tuổi
Có thể gọi khổng lồ -
Pla-tông, A-si-met,
Ta-let, Pi-ta-go…
Trong lĩnh vực xây dựng
Và kiến trúc ở đây,
Nhiều công trình đồ sộ
Tồn tại đến ngày nay.
Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
Đấu trường Cô-li-dê
Ở Rô-ma cổ kính.
Không tin à? Ông thề.
Ông còn đến Hy Lạp,
Thăm đền Pac-tê-nông.
To, đẹp, hoành tráng lắm.
Sao, lại không tin ông?
Mai sau các cháu lớn,
Cứ đến những nơi này,
Ngắm chúng và hãy nhớ
Lời ông nói hôm nay.
Các cháu mệt chưa nhỉ?
Chưa à? Có gì đâu.
Học lịch sử thích lắm,
Như ông nói từ đầu.
Ngày mai ông sẽ nói
Về lịch sử nước ta.
Giờ ngồi im, ông kể
Chuyện một cậu lớp Ba.
Câu chuyện này có thật,
Đúng mắt nhìn, tai nghe,
Khi thăm nhà người bạn,
Mới đây thôi, xin thề.
CHUYỆN CẬU BÉ VÀ BA ĐIỂM MỘT
Cậu nọ đi học về
Liền giấu ngay sổ điểm,
Nhưng bà mẹ đòi xem -
Cậu hết đường giấu diếm.
Mẹ chau mày thở dài,
Chỉ thấy toàn điểm một.
Bố giận dữ hồi lâu
Nhìn cậu con học dốt.
- Vì sao cô cho con
Con một này?- Bố quát.
-Vì con yếu môn sinh,
Gọi chim là bò sát.
-Thế điểm một thứ hai?
Cậu kia liền nhăn nhó:
-Con tưởng Kenguru
Mọc ngoài đồng như cỏ.
-Điểm một là còn cao!
Bà mẹ rơi nước mắt.
-Nhưng trường con xưa nay
Điểm một là thấp nhất.
Còn điểm một thứ ba
Là do con dốt toán.
Đề bài hỏi: Vậy là
Lớp B bao nhiêu bạn?
Con giải suốt một giờ,
Tính trên rồi tính dưới,
Cuối cùng thành: Lớp B
Có hai mươi bạn rưỡi.
7
NƯỚC VĂN LANG
Vào thời xa xưa ấy
Đất nước của chúng ta
Là một vùng rậm rạp
Núi và đồi bao la.
Có rất nhiều hang động
Và cây cối tốt tươi
Với nhiều loài động vật,
Tất nhiên, có cả người.
Các nhà khảo cổ học,
Năm sáu mươi, sáu lăm,
Tìm thấy dấu tích họ,
Ba, bốn trăm triệu năm.
Họ sinh sống rải rác
Ở Hòa Bình, Hạ Long,
Nghệ An và phú Thọ…
Chủ yếu dọc các sông.
Ngoài săn bắn, hái lượm,
Để có thêm thức ăn,
Họ chăn nuôi, trồng trọt,
Cuộc sống khá hơn dần.
Gần ba nghìn năm trước,
Dọc theo các triền sông
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Như sông Mã, sông Hồng,
Có nhiều bộ lạc lớn,
Đã hình thành khắp nơi,
Chung phong tục, ngôn ngữ,
Hùng mạnh và đông người.
Trong đó, hùng mạnh nhất
Là bộ lạc Văn Lang
Ở Việt Trì, Phú Thọ,
Sống trong các bản làng.
Khoảng thế kỷ thứ bảy
Trước Công Nguyên, một người,
Một thủ lĩnh tài giỏi
Của Văn Lang ra đời.
Ông nhanh chóng khuất phục
Các bộ lạc bốn phương,
Thanh thế rất mạnh mẽ,
Rồi tự xưng Hùng Vương.
Ông lập một nước mới,
Đặt tên là Văn Lang,
Đóng đô ở Phú Thọ,
Thuộc thời đại Hồng Bàng.
Đất nước ấy rộng lớn,
Gồm Bắc Bộ bây giờ
Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.
Nước có mười lăm bộ,
Giống huyện quận ngày nay,
Đứng đầu là Lạc Tướng.
Bên dưới các bộ này
Có rất nhiều chiềng, chạ,
Tương đương như xã, làng,
Đứng đầu là Bồ Chính,
Chức quan thời Văn Lang.
Nhà nước chưa có luật,
Cả quân đội cũng không.
Mỗi khi có chiến sự,
Các trai tráng một lòng
Theo lệnh vua chiến đấu.
Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
Lo các việc chính sự
Có các quan Lạc Hầu.
Kiểu cha truyền con nối,
Các vua lên ngai vàng.
Mị Nương là công chúa.
Hoàng tử là Quan Lang.
Là một nước nông nghiệp,
Dân nước ta bấy giờ
Giỏi về canh tác lúa,
Biết dệt vải, thêu thùa.
Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
Phát hiện ở Hà Nam
Và một số trống khác
Cũng người thời ấy làm.
Họ còn biết dùng sắt
Đúc vũ khí, lưỡi cày.
Đánh cá, nuôi gia súc,
Đóng thuyền và trồng cây.
Vì còn nhiều thú dữ
Nên dân ở nhà sàn.
Nhà làm bằng tre nứa,
Tường là các tấm đan.
Nam giới chỉ đóng khố.
Nữ mặc váy, yếm che.
Chân trần, đầu thường đội
Một vòng lông chim xòe.
Dân Văn Lang thời ấy
Xăm mình, nhuộm răng đen.
Theo chế độ mẫu hệ
Và thờ cúng tổ tiên.
Vào những ngày lễ hội
Họ tổ chức đua thuyền,
Thi giã gạo, làm bánh,
Trong tiếng trống, tiếng kèn…
Nước Văn Lang thế đấy,
Có từ thời xa xưa.
Một đất nước rộng lớn.
Các cháu nghe, nhớ chưa?
Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện cổ tích này,
Xẩy ra vào thời ấy.
Về bánh chưng, bánh dày.
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DÀY
Đời Hùng Vương thứ sáu,
Khi giặc Ân không còn,
Vua có ý thoái vị,
Muốn nhường ngôi cho con.
Vua gọi các hoàng tử,
Nhân năm mới, đầu xuân:
“Các con tìm lễ vật
Cùng nước uống, thức ăn
Làm sao thật ý nghĩa
Để thờ cúng đất trời,
Cúng thần linh, tiên tổ,
Đẹp dáng, đẹp lòng người.
Cuộc thi này đặc biệt,
Phần thắng thuộc về ai
Ta sẽ cho người ấy
Được thừa kế vương ngai.”
Các hoàng tử háo hức
Lên đường đi gần xa,
Tìm của ngon vật lạ,
Mong nối ngôi vua cha.
Con trai thứ mười tám,
Có tên là Lang Liêu,
Vốn hiền hậu, hiếu thảo,
Đáng khen đủ mọi điều.
Mẹ không may chết sớm,
Việc thờ cúng tổ tiên
Chàng còn chưa được dạy,
Nên lo lắng, buồn phiên.
Một đêm, thần báo mộng:
“Suy cho cùng, ở đời
Không gì quý bằng gạo.
Gạo nuôi sống con người.
Vậy con lấy gạo nếp
Làm bánh vuông, bánh tròn.
Vuông tượng trưng cho đất.
Tròn là bầu trời con.
Trong bánh có nhân thịt,
Ngoài gói bằng lá xanh,
Để ghi sâu ơn nặng
Công cha mẹ sinh thành.”
Chàng Lang Liêu tỉnh dậy
Nhớ lời thần, rất mừng,
Làm bánh vuông, luộc chín,
Đặt tên là bánh chưng.
Chàng đồ xôi, giã mịn,
Rồi ngồi vắt bằng tay
Những bánh tròn bọc lá,
Gọi đó là bánh dầy.
Đúng hẹn, các hoàng tử
Mang đến trình vua cha
Nhiều món ăn ngon lạ
Của các miền gần xa.
Còn Lang Liêu, khiêm tốn,
Dâng bánh chưng, bánh dày.
Chàng nói rõ ý nghĩa
Của các loại bánh này.
Vua đích thân nếm thử
Thấy rất ngon, và rồi
Chàng là người được chọn
Để vua cha truyền ngôi.
Từ đó, Tết Nguyên Đán
Người dân khắp mọi miền
Làm hai loại bánh ấy
Cúng đất trời, tổ tiên.
8
NƯỚC ÂU LẠC
Đời Hùng Vương Mười Tám,
Tức thế kỷ thứ Ba,
Trước Công Nguyên, hẳn thế,
Nước Văn Lang chúng ta
Không yên bình như trước.
Vua quan lo ăn chơi,
Không lo chuyện phòng vệ.
Dân đói ăn nhiều nơi.
Trong khi đó, Phương Bắc,
Vua Tần, Tần Thủy Hoàng,
Vào năm Hai Một Tám,
Cho đánh chiếm Văn Lang.
Người Lạc Việt lúc ấy
Sống cùng người Tây Âu,
Còn gọi người Âu Việt,
Có quan hệ từ lâu.
Họ hợp sức chiến đấu.
Quân giặc mạnh và đông,
Giết thủ lĩnh Âu Việt,
Nhưng họ không nản lòng.
Sử cũ Trung Quốc chép
Về quân dân Văn Lang:
“Người Việt bỏ lên núi,
Nhất quyết không đầu hàng.
Ngày án binh bất động,
Đêm quấy nhiễu quân Tần.
Họ tôn một hào kiệt
Để lãnh đạo toàn dân.”
Hào kiệt ấy, Thục Phán,
Vừa có đức, có tài,
Ngăn được bọn xâm lược,
Làm chiến tranh kéo dài.
Sáu năm trời ròng rã
Quân giặc bị giam chân.
Trong một trận quyết chiến,
Quân Việt thắng quân Tần.
Tướng giặc bị giết chết,
Là Hiệu Úy Đồ Thư.
Nhà Tần phải ra lệnh
Cho rút quân từ từ.
Vào năm Hai Không Bảy,
Sau chiến thắng không lâu,
Thục Phán lên ngôi báu.
Lạc Việt và Tây Âu
Được sáp nhập làm một,
Một nước mới ra đời,
Có tên là Âu Lạc,
Đất rộng và đông người.
Kinh đô của Âu Lạc
Đóng ở vùng Cổ Loa,
Một vùng đất bằng phẳng,
Cách Bờ Hồ không xa.
An Dương Vương Thục Phán
Sau khi lên ngai vàng,
Giữ nguyên bộ máy cũ
Của vua Hùng Văn Lang.
Nước vẫn chia thành bộ,
Có Lạc Tướng, Lạc Hầu,
Bồ Chính và chiềng chạ…
Vốn tồn tại từ lâu.
Đất nước đã phát triển,
Trước hết là nghề nông,
Nghề chăn nuôi, dệt vải,
Rồi các nghề thủ công.
Dân số gia tăng mạnh.
Rồi khoảng cách giàu nghèo
Cũng gia tăng tương ứng,
Rồi mâu thuẫn tăng theo.
*
Các cháu nghe, hiểu chứ?
Giờ ông kể vì sao
Âu Lạc đã sụp đổ,
Và trong hoàn cảnh nào.
Thục Phán cho xây dựng
Ở kinh đô của mình
Một khu thành bằng đất,
Sau gọi là Loa Thành.
Sử cũ chép: “Thành ấy
Rộng nghìn trượng, hình tròn,
Như chiếc loa vỏ ốc…”
Nay di tích vẫn còn.
Với ba vòng khép kín,
Tường thành này rất dài,
Những mười sáu nghìn mét,
Nếu ông nhớ không sai.
Mặt thành khoảng mười mét.
Chiều cao - năm đến mười.
Chân thành, để đứng vững,
Có chỗ rộng hai mươi.
Có hào sâu đầy nước
Bao bọc xung quanh thành,
Thông với một đầm lớn,
Dành cho các thủy binh.
Giữa là khu Thành Nội,
Nơi ở của Hoàng Gia,
Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng
Gia nhân và người nhà.
Cổ Loa, thành xưa ấy,
Không chỉ là kinh đô,
Mà còn một chiến lũy,
Cùng quân đội, lương kho.
*
Đất nước mới thành lập,
Được ít năm yên hòa
Thì có họa xâm lược
Từ phía quân Triệu Đà.
Triệu Đà là viên tướng
Được vua Tần ủy quyền
Cai quản xứ Lưỡng Quảng
Và những vùng kề bên.
Vào năm Hai Không Bảy,
Nhà Tần yếu, Triệu Đà
Lập nên nước Nam Việt
Ở vùng đất giáp ta.
Chẳng bao lâu sau đó
Triệu Đà đã dấy binh,
Rắp tâm đánh Âu Lạc,
Những tưởng sẽ thắng nhanh.
Tuy nhiên, quân Âu Lạc,
Có lợi thế đất nhà,
Tướng giỏi, vũ khí tốt,
Nên hắn thua, xin hòa.
Vào năm Một Bảy Chín,
Hắn lần nữa xuất quân
Sau khi đã ly gián
Thục Phán và triều thần.
Do không còn tướng giỏi,
Không chủ động phòng xa,
Đất nước ta, Âu Lạc,
Lọt vào tay Triệu Đà.
Vậy là các cháu thấy,
Thục Phán An Dương Vương,
Chỉ vì do khinh xuất,
Mà phải chết thảm thương.
Cũng bắt đầu từ đó,
Suốt một nghìn năm dài,
Dân ta là nô lệ
Của phong kiến nước ngoài.
Trong suốt nghìn năm ấy
Không khuất phục, đầu hàng,
Dân Đại Việt nổi dậy,
Lập nhiều trang sử vàng.
Giờ thì ông sẽ kể
Một truyền thuyết đau lòng
Liên quan đến Thục Phán
Và con gái của ông.
(Ngày mai đăng tiếp)
___________
1
LỜI MÀO ĐẦU
Chào các cháu thân mến.
Ông là Thái Bá Tân,
Còn gọi Ông Tân Béo,
Nghề - làm thơ, viết văn.
Trước ông cũng dạy học,
Nhưng lâu rồi, hôm nay
Ông có chuyện muốn nói
Với các cháu thế này.
Người ta bảo các cháu
Ngại môn Sử, đúng không?
Thế thì thật đáng tiếc,
Vì môn ấy, theo ông
Là môn rất bổ ích,
Dễ học và cực hay.
Ông ngày bé, thú thật,
Mê học nó hàng ngày.
Vì sao? Vì học nó
Như một chuyến đi xa,
Ngược thời gian, tìm hiểu
Lịch sử của nước nhà.
Mà chuyến đi vui lắm,
Chẳng tốn kém một đồng.
Ông sẽ dẫn các cháu,
Ta cùng đi, thích không?
Vừa đi ông vừa kể,
Bảo đảm không ai buồn.
Kể bằng thơ dễ hiểu.
Nếu cần, ông thề luôn.
Sẽ lâu và xa đấy.
Bốn nghìn năm cơ mà.
Bốn nghìn năm lịch sử
Đất nước Việt Nam ta.
Ông sẽ theo trình tự
Kể từ những ngày đầu
Nhân dân ta dựng nước
Rồi kể tiếp về sau.
Suốt bốn nghìn năm ấy
Tổ Quốc ta thân yêu
Trải qua bao biến cố.
Nhiều lắm, nhiều, rất nhiều.
Nhiều triều đại tiếp nối.
Nhiều chiến thắng vẻ vang.
Nhiều anh hùng, hào kiệt.
Nhiều trang sử huy hoàng…
Tất cả những cái ấy
Ta phải biết, đúng không?
Biết để hiểu đất nước,
Tự hào về cha ông.
Lần lượt ông kể hết.
Hơn thế, dọc đường đi
Ông kể xen cổ tích,
Toàn truyện hay, li kỳ.
Hoặc có thể là truyện
Các danh nhân, anh hùng.
Nước ta, người như thế
Thì ôi, nhiều vô cùng.
Các cháu đồng ý chứ,
Sao cứ phải chờ lâu?
Làm gì là làm tới.
Nào, chúng ta bắt đầu.
2
VŨ TRỤ VÀ TRÁI ĐẤT
Đã bao giờ các cháu
Tự hỏi mình câu này:
“Từ đâu ta có được
Thế giới như hôm nay?”
Một câu hỏi thú vị,
Được đặt ra từ lâu.
Bây giờ ông sẽ nói,
Từ sơ khai, ban đầu.
Mười bốn tỉ năm trước,
Có một cái Big Bang,
Tức là Vụ Nổ Lớn,
To lắm, thật kinh hoàng.
Cái Big Bang lớn ấy
Làm vũ trụ nở ra,
Tạo nên các thiên thể,
Như Trăng, Sao, Thiên Hà…
Mười tỉ năm sau đó
Trái Đất mới ra đời,
Như một hành tinh nhỏ
Bay xung quanh Mặt Trời.
Mặt Trời về thực chất
Chính là một Ngôi Sao,
Vì nó tự phát sáng,
Lơ lửng trên trời cao.
Thiên thể bay quanh nó
Được gọi là Hành Tinh,
Tự chúng không phát sáng,
Như Trái Đất chúng mình.
Mặt Trời có tất cả
Tám Hành Tinh khác nhau.
Rất khác về kích thước,
Tính chất và sắc màu.
Đó chính là Sao Hỏa,
Sao Mộc, Hải, Thiên Vương,
Các sao Thổ, Kim, Thủy
Và Trái Đất thân thương.
Trong số tám “Sao” ấy,
(Chính xác là Hành Tinh,
Vì do ta gọi chệch)
Có Vệ Tinh của mình.
Vệ Tinh là gì nhỉ?
Là thiên thể bay quanh
Một Hành Tinh nào đó.
Tất nhiên bay rất nhanh.
Ngoài Vệ Tinh nhân tạo,
Trái Đất có Mặt Trăng,
Một Vệ Tinh tuyệt đẹp,
Ta quen gọi Chị Hằng.
Chị Hằng không tỏa sáng.
Hấp thụ ánh Mặt Trời,
Đêm, Chị phản chiếu lại,
Làm say lòng loài người.
Theo các nhà khoa học,
Trái Đất của chúng ta
Hình thành từ mảnh vỡ
Của Mặt Trời văng ra.
Đến lượt mình, Trái Đất
Cũng có một miếng văng,
Cùng thời gian, cô lại
Và rồi thành Mặt Trăng.
Vậy, như ông đã nói,
Sau cú nổ kinh hoàng,
Ta gọi Vụ Nổ Lớn,
Tây thì gọi Big Bang,
Tỉ tỉ Sao xuất hiện,
Phân bố ở khắp nơi.
Mỗi Sao là một Hệ.
Ta thuộc Hệ Mặt Trời.
Nhiều Hệ gộp nhau lại
Thành một chùm Thiên Hà.
Ngân Hà là tên gọi
Thiên Hà của chúng ta.
Vũ Trụ nó lớn lắm.
Lớn vô tận, vô cùng,
Đến mức ông cũng chịu,
Không thể nào hình dung.
Cùng với sự lớn ấy
Là khối lượng khổng lồ
Các Thiên Hà, các Hệ
Đủ kích thước nhỏ to.
Có chuyện này thật lạ,
Thoạt nghe tưởng chuyện cười,
Rằng Sao trong Vũ Trụ
Cũng sinh, chết, như người.
Theo các nhà khoa học,
Năm tỉ năm nữa thôi
Mặt Trời ngừng phát sáng
Và sẽ chết, than ôi,
Trái Đất ta, thật tiếc,
Cũng chết theo, tuy nhiên,
Từ giờ đến lúc ấy
Còn lâu, đừng buồn phiền.
Cũng có thể khoa học
Giúp chúng ta “dọn nhà”
Sang sống ở nơi khác
Trong Vũ Trụ bao la.
Vậy là hết lo nhé,
Ngoài lo học thành người.
Nhất là học môn Sử.
Tuyệt đối không được lười.
Tiếp đến ông sẽ nói
Một đề tài rất hay,
Là do đâu xuất hiện
Sự sống như ngày nay.
Giờ thì như đã hứa,
Để các cháu nghỉ ngơi,
Ông kể một câu chuyện,
Một bài học ở đời.
Chuyện về một cậu bé
Lười đọc sách, tiếc sao.
Rồi các cháu sẽ hiểu
Chuyện kết thúc thế nào.
Đúng, đọc sách cần lắm.
Mà phải đọc hàng ngày.
Nào, lắng nghe ông kể.
Câu chuyện ấy thế này.
CUỐN SÁCH VÀ CHIẾC GIỎ ĐỰNG THAN
Theo người ta kể lại,
Xưa có người đàn ông
Sống với một cậu bé
Trong ngôi nhà ven sông.
Đó là hai ông cháu.
Người ông tóc bạc phơ.
Cậu bé mới mười tuổi.
Quang cảnh đẹp, nên thơ.
Hàng ngày ông đọc sách.
Vâng, đọc sách hàng ngày.
Có nhiều cuốn sách cổ
Gáy bọc da, rất dày.
Còn cậu bé đi học,
Cũng hàng ngày, buổi chiều,
Khi làm xong bài tập,
Cậu chơi bóng, thả diều.
Cũng có hôm chơi chán,
Cậu đọc sách cùng ông,
Nhưng đọc không hứng lắm,
Và lúc hiểu, lúc không.
“Ông ơi, sao thế nhỉ, -
Cháu đọc thấy không hay,
Lại buồn ngủ, không hiểu.
Mà ông đọc suốt ngày.”
Ông mỉm cười bảo cậu
Lấy chiếc giỏ than đen
Vừa đổ than vào bếp,
Xuống sông xách nước lên.
Cậu vâng lời, rất cố,
Nhưng khi lên đến nơi,
Nước đã chảy ra hết.
Ông cậu lại mỉm cười:
“Thì cháu hãy thử lại.
Lần này đi nhanh hơn.”
Cậu đi gần như chạy,
Mà nước vẫn không còn.
Cậu xách thêm lần nữa,
Mồ hôi chảy thành dòng:
“Không thể dùng chiếc giỏ
Để lấy nước, thưa ông.”
Ông cậu đáp: “Đúng vậy.
Thực ra ông hôm nay
Không muốn cháu lấy nước,
Mà muốn nói điều này:
Giỏ không đựng được nước.
Nhưng giỏ bám than đen,
Sau mấy lần “lấy nước”
Sẽ sạch, trắng dần lên.
Cũng vậy, cháu đọc sách,
Khó hiểu, thấy không cần.
Nhưng cháu kiên trì đọc,
Đầu óc sẽ sáng dần.”
Cậu bé nhìn chiếc giỏ,
Hình như lần đầu tiên,
Thấy nó được nước rửa
Không còn bám bụi đen.
Vâng, ông già nói thế,
Rằng đọc sách rất cần
Tâm hồn và ý nghĩ
Sẽ thanh lọc dần dần.
Từ đó, cậu bé ấy
Chăm đọc sách hàng ngày.
Rồi trở nên thông thái
Tự lúc nào không hay.
3
SỰ SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT
Người ta đã ước tính
Có hàng tỉ Thiên Hà,
Tỉ tỉ ngôi sao sáng
Trong Vũ Trụ bao la.
Tỉ tỉ sao sáng ấy
Có thể có hành tinh,
Tức là có sự sống
Như Trái Đất chúng mình.
Tiếc, đến nay, sự sống
Chưa tìm thấy nơi nào.
Có thể ta đơn độc
Giữa nghìn nghịt trời sao.
Có thể là như vậy.
Có thể không, hãy chờ.
Ông thì nghĩ là có.
Để rồi xem, bây giờ
Ngắn gọn và dễ hiểu,
Bây giờ ông điểm qua
Việc hình thành sự sống
Trên Trái Đất chúng ta.
Hơn bốn tỉ năm trước,
Ông nói rồi, nhớ không,
Đã hình thành Trái Đất,
Một khối lửa rực hồng.
Khối lửa ấy lắng xuống.
Các chất nhẹ nổi lên,
Thành quả cầu rất nóng,
Có bề mặt màu đen.
Rồi quả cầu ấy nguội,
Thành đất, đá nhấp nhô.
Các núi lửa hoạt động,
Liên tục phun bụi tro.
Chính trong bụi tro ấy
Có nhiều khí, về sau
Hình thành nên khí quyển
Bao quanh quả địa cầu.
Rồi đại dương xuất hiện,
Bốn tỉ năm trước đây
Nhờ xuất hiện hơi nước
Và mưa lớn nhiều ngày.
Từ trên cao xuống thấp,
Nước chảy mạnh từng dòng,
Dần dần ăn lõm đất
Và cuối cùng thành sông.
Nửa tỉ năm sau đó
Có sinh vật đơn bào.
Thêm hai tỉ năm nữa
Phát triển thành đa bào.
Rồi xuất hiện động vật,
Gồm các loài giản đơn,
Lúc đầu sống dưới nước,
Rồi thành phức tạp hơn.
Năm trăm triệu năm trước
Có loài cá đầu tiên.
Một thời gian sau đó
Có cỏ trên đất liền.
Các cháu chú ý nhé:
Cá xuất hiện trước cây.
Cá bò lên đất cạn,
Thành động vật sau này.
Trước hết thành bò sát,
Lúc đầu sống lưỡng cư,
Cả dưới nước, trên đất,
Cứ tiến hóa từ từ.
Trong các loài bò sát,
Có một loài rất to,
Là khủng long tiền sử,
Bằng mấy chục con bò.
Hai trăm triệu năm trước,
Tổ tiên xưa của Người
Là động vật có vú
Mới có mặt trên đời.
Chim thì mãi sau đó,
Khoảng năm mươi triệu năm.
Hoa thì còn sau nữa,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Loài khủng long, ta biết,
Tuyệt chủng đã từ lâu,
Sáu lăm triệu năm trước,
Còn chưa rõ do đâu.
4
LOÀI VƯỢN CỔ
Hàng chục triệu năm trước,
Trên trái đất chúng ta
Có một loài vượn cổ,
Thường sống trong rừng già.
Hàng ngày đi bắt thú
Hoặc tìm kiếm thức ăn,
Loài vượn này thích ứng
Với việc đi bằng chân.
Hai chi trước giải phóng
Để cầm nắm, bẻ cây,
Hàng triệu năm phát triển,
Rồi dần dần thành tay.
Thế là Người tối cổ
Cuối cùng đã hình thành.
Đứng thẳng lưng, tay ngắn,
Chân to chắc, bước nhanh.
Họ sống thành từng tốp,
Trên dưới vài chục người.
Ban ngày đi bắt thú
Hay hái hoa quả tươi.
Còn ban đêm họ ngủ
Trong hang, trong lều thô
Dựng bằng cành cây lớn,
Phủ cỏ hoặc lá khô.
Họ đã biết dùng lửa
Để nướng chín thức ăn;
Làm công cụ bằng đá
Giúp cho việc đi săn.
Bốn mươi nghìn năm trước,
Loài Người tối cổ này
Cuối cùng có hình dáng
Giống con người hiện nay.
Họ sinh hoạt theo nhóm,
Khoảng vài chục gia đình,
Có họ hàng gần gũi,
Gọi là Người Thông Minh.
Đó là các thị tộc,
Làm, ăn chung với nhau
Trong chế độ nguyên thủy,
Cái buổi ấy ban đầu.
Thế là ông kể hết
Sơ lược về quá trình
Phát triển của Trái Đất
Đến con người thông minh.
Hiện các nhà khoa học
Chưa nhất trí với nhau.
Nhiều điều còn tranh cãi,
Mà chắc còn cãi lâu.
Tiếp đến ông sẽ nói
Về xã hội loài người
Thời xã hội nguyên thủy
Vốn tồn tại một thời.
5
XÃ HỘI NGUYÊN THỦY
Trong xã hội nguyên thủy,
Mọi người sống với nhau,
Không khái niệm đẳng cấp,
Sang hèn hay nghèo giàu.
Cùng chung sức làm việc,
Không tranh giành miếng ăn.
Không khái niệm bóc lột.
Không ghen ghét, thù hằn.
Vào thời tối cổ ấy
Thức ăn còn chưa nhiều,
Lại sống cùng thú dữ,
Quả khốn khó nhiều điều.
Cùng với sự tiến hóa,
Con người đã khôn dần,
Biết chế tạo công cụ,
Kiếm được nhiều thức ăn.
Họ biết nuôi gia súc,
Trồng ngũ cốc, rau xanh,
Lấy vỏ cây dệt vải,
Làm đồ gốm, đồ sành.
Tuy nhiên, công cụ đá
Dẫu tiến bộ rất nhiều,
Nhưng năng suất lao động
Chẳng hơn được bao nhiêu.
Sáu nghìn năm về trước,
Con người tìm thấy đồng,
Cùng các kim loại khác
Rồi học cách gia công.
Họ chế tao nông cụ,
Các vật dụng trong nhà,
Cả các đồ trang sức,
Xẻ gỗ để dựng nhà.
Nhờ có công cụ mới,
Họ khai phá đất hoang,
Săn bắt nhiều dã thú,
Sản xuất, trao đổi hàng.
Rồi hàng hóa, lương thực
Được làm ra cuối cùng
Vừa nhiều vừa đa dạng,
Vượt quá mức tiêu dùng.
Số lượng dư thừa ấy
Được những người thông minh
Hay khỏe mạnh chiếm giữ
Làm của riêng cho mình.
Họ ngày càng giàu có,
Không cùng làm, cùng ăn,
Mà trở thành bóc lột,
Và thế là dần dần
Một giai cấp xuất hiện,
Sống bằng bóc lột người.
Xã hội cũ tan rã,
Xã hội mới ra đời.
*
Cái xã hội nguyên thủy,
Dạng xã hội đầu tiên,
Đại khái là thế đấy,
Như ông vừa kể trên.
Mai, trước khi kể tiếp,
Về lịch sử nước nhà,
Ông sẽ điểm ngắn gọn,
Kiểu cưỡi ngựa xem hoa,
Một số quốc gia cổ,
Cả Đông và cả Tây.
Các cháu đồng ý chứ?
Thôi, tạm dừng hôm nay.
À mà khoan, gượm đã,
Có chuyện ngụ ngôn này,
Ông kể cho các cháu,
Bảo đảm là rất hay.
Ông Esop viết nó
Cách đây ba nghìn năm,
Một nô lệ Hy Lạp,
Nếu ông nhớ không nhầm.
Các cháu lắng nghe nhé,
Vừa hay vừa thông minh.
Nghe xong, phải cố gắng
Rút bài học cho mình.
HAI CON DÊ QUA CẦU
Có một con Dê Trắng
Và một con Dê Đen
Đi qua chiếc cầu nhỏ,
Hai con từ hai bên.
Chẳng may, cầu thì hẹp,
Sông phía dưới lại sâu.
Ai cũng tranh đi trước,
Quyết không chịu nhường nhau.
Dê Trắng nói: “Anh bạn,
Anh phải nhường tôi đi.”
Dê Đen đáp: “Ngược lại.
Nhường ư? Anh nói gì?”
Cả hai con cứ bước,
Không ai chịu nhường ai,
Rồi húc nhau ghê gớm,
Rồi rơi xuống cả hai.
Từng có chú Dê Trắng
Và Dê Đen, buồn sao,
Nay ở khúc sông ấy
Không có chú Dê nào.
*
Dê hay Người cũng vậy,
Đi đường phải nhường nhau.
Nếu có chậm một chút,
Cũng chẳng chết ai đâu.
6
CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI
Vào cuối thời nguyên thủy,
Cư dân sống rất đông
Ở những vùng đất lớn
Dọc theo các dòng sông,
Như sông Nin Ai Cập,
Sông Dương Tử, Trường Giang,
Trung Hoa thời cổ đại.
Ở Ấn Độ - sông Hằng.
Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
Hai sông nặng phù sa,
Ở khu vực Tây Á,
Còn gọi là Lưỡng Hà.
Nhờ nông cụ cải tiến,
Đất rộng và phì nhiêu,
Nông nghiệp phát triển mạnh,
Năng suất cao hơn nhiều.
Đặc biệt là lúa gạo,
Cả khoai sắn, rau, dưa.
Chăn nuôi cũng phát triển,
Đã có phần dư thừa.
Vậy là có chiếm hữu -
Có người không đủ ăn,
Có người thành giàu có,
Giai cấp hình thành dần.
Năm nghìn năm về trước,
Lần đầu tiên, quốc gia
Hình thành ở Ai Cập,
Trung Quốc và Lưỡng Hà.
Ở các quốc gia ấy
Dân sống bằng nghề nông,
Nhưng họ không có ruộng,
Chỉ là người làm công.
Sau mỗi mùa thu hoạch
Họ phải nộp, trung bình,
Một phần ba sản phẩm
Cho chúa đất của mình.
Ngoài ra phải lao dịch,
Tức là làm không công
Cho nhà giàu, quí tộc,
Và cho cả cộng đồng.
Bọn nhà giàu, quí tộc
Không làm việc chân tay,
Vì có người hầu hạ
Suốt cả đêm lẫn ngày.
Đó là các nô lệ,
Vốn là những tù binh,
Những người nghèo bị ép
Bán sức để nuôi mình.
Đứng đầu lớp quí tộc
Có ông vua, ông này
Nắm hết mọi quyền lực
Trong mọi việc hàng ngày.
Hơn thế, vua tự nhận
Là thánh thần, hơn người.
Trung Quốc là Thiên Tử,
Nôm na là con trời.
Còn ở nước Ai Cập
Vua là Pha-ra-ông,
Tức là “ngôi nhà lớn”.
Các cháu thấy kỳ không?
Để giúp việc vua ấy,
Một bộ máy chính quyền
Do quí tộc nắm giữ,
Suốt từ dưới lên trên.
Chúng bắt dân đóng thuế,
Bắt đi lính, bắt phu,
Xây cung điện, ai chống
Sẽ bị giết, bỏ tù…
*
Vậy là ông đã nói
Ngắn gọn trong mấy dòng
Về ba quốc gia cổ,
Tất cả đều Phương Đông.
Giờ các cháu nghe tiếp
Về hai nước Phương Tây,
Rô-ma và Hy Lạp,
Được hình thành thế này.
Có hai bán đảo nhỏ
Ở miền Nam châu Âu,
Nhô ra Địa Trung Hải.
Ở nơi ấy, từ lâu,
Hơn ba nghìn năm trước
Hình thành hai quốc gia,
Là Hy Lạp cổ đại
Và nhà nước Rô-ma.
Đất ở đây không tốt
Như các nước Phương Đông,
Nên người dân buộc phải
Tìm giống và chọn trồng
Nhiều cây lưu niên phụ,
Như ô-liu và nho.
Chúng không cần nhiều nước,
Nhưng quả mọng và to.
Đặc biệt hai nước ấy
Không chỉ giỏi nghề nông,
Còn giỏi nghề làm rượu
Và nhiều nghề thủ công,
Như nghề luyện kim loại
Làm công cụ, nữ trang,
Nghề thủy tinh, gốm sứ,
Cả nghề tìm, đãi vàng.
Rô-ma và Hy Lạp
Có nhiều cảng nước sâu,
Nên buôn bán phát triển,
Tấp nập thuyền và tàu.
Xã hội hai nước ấy
Gồm có hai loại người -
Chủ nô và nô lệ.
Tỉ lệ một trên mười.
Nô lệ phải làm việc
“Như nô lệ”, tất nhiên.
Bị coi như súc vật,
Không cơm áo, gạo tiền.
Chủ nô, tức quí tộc,
Lại sung sướng cực kỳ.
Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
Không động tay làm gì.
Nô lệ đã khởi nghĩa
Rất nhiều lần ở đây,
Vì họ không cam chịu
Cuộc sống bất công này.
*
Vào buổi bình minh ấy,
Các quốc gia cổ xưa
Đạt được những thành tựu,
Cũng không phải loại vừa.
Trung Quốc có âm lịch,
Mười hai tháng một năm.
Ba mươi ngày một tháng,
Tính toán cả ngày rằm.
Họ có đồng hồ nước,
Đồng hồ cát để bàn
Để đo và tính toán
Giờ giấc và thời gian.
Người Phương Đông thời cổ
Nghĩ ra chữ tượng hình
Để ghi lại cảm nghĩ
Và văn hóa của mình.
Trong lĩnh vực toán học,
Người Lưỡng Hà là người
Nghĩ ra các con số
Từ một cho đến mười.
Những con số đơn giản
Các cháu dùng ngày nay.
Đơn giản như khi đếm
Mười ngón trên hai tay.
Trong khi người Ai Cập
Lại tìm ra số Pi,
Vì họ giỏi Hình Học,
Chính xác đến lạ kỳ.
Trong lĩnh vực xây dựng,
Họ để lại cho ta
Rất nhiều Kim Tự Tháp,
Thành quách ở Lưỡng Hà.
Người Rô-ma, Hy Lạp
Vào thời ấy mịt mùng
Đã có bảng chữ cái
Nay nhiều nước vẫn dùng.
Trong lĩnh vực khoa học,
Như Toán, Sử, thơ văn,
Vật Lý, Triết, Hình Học,
Điêu Khắc, Địa, vân vân,
Xuất hiện nhiều tên tuổi
Có thể gọi khổng lồ -
Pla-tông, A-si-met,
Ta-let, Pi-ta-go…
Trong lĩnh vực xây dựng
Và kiến trúc ở đây,
Nhiều công trình đồ sộ
Tồn tại đến ngày nay.
Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
Đấu trường Cô-li-dê
Ở Rô-ma cổ kính.
Không tin à? Ông thề.
Ông còn đến Hy Lạp,
Thăm đền Pac-tê-nông.
To, đẹp, hoành tráng lắm.
Sao, lại không tin ông?
Mai sau các cháu lớn,
Cứ đến những nơi này,
Ngắm chúng và hãy nhớ
Lời ông nói hôm nay.
Các cháu mệt chưa nhỉ?
Chưa à? Có gì đâu.
Học lịch sử thích lắm,
Như ông nói từ đầu.
Ngày mai ông sẽ nói
Về lịch sử nước ta.
Giờ ngồi im, ông kể
Chuyện một cậu lớp Ba.
Câu chuyện này có thật,
Đúng mắt nhìn, tai nghe,
Khi thăm nhà người bạn,
Mới đây thôi, xin thề.
CHUYỆN CẬU BÉ VÀ BA ĐIỂM MỘT
Cậu nọ đi học về
Liền giấu ngay sổ điểm,
Nhưng bà mẹ đòi xem -
Cậu hết đường giấu diếm.
Mẹ chau mày thở dài,
Chỉ thấy toàn điểm một.
Bố giận dữ hồi lâu
Nhìn cậu con học dốt.
- Vì sao cô cho con
Con một này?- Bố quát.
-Vì con yếu môn sinh,
Gọi chim là bò sát.
-Thế điểm một thứ hai?
Cậu kia liền nhăn nhó:
-Con tưởng Kenguru
Mọc ngoài đồng như cỏ.
-Điểm một là còn cao!
Bà mẹ rơi nước mắt.
-Nhưng trường con xưa nay
Điểm một là thấp nhất.
Còn điểm một thứ ba
Là do con dốt toán.
Đề bài hỏi: Vậy là
Lớp B bao nhiêu bạn?
Con giải suốt một giờ,
Tính trên rồi tính dưới,
Cuối cùng thành: Lớp B
Có hai mươi bạn rưỡi.
7
NƯỚC VĂN LANG
Vào thời xa xưa ấy
Đất nước của chúng ta
Là một vùng rậm rạp
Núi và đồi bao la.
Có rất nhiều hang động
Và cây cối tốt tươi
Với nhiều loài động vật,
Tất nhiên, có cả người.
Các nhà khảo cổ học,
Năm sáu mươi, sáu lăm,
Tìm thấy dấu tích họ,
Ba, bốn trăm triệu năm.
Họ sinh sống rải rác
Ở Hòa Bình, Hạ Long,
Nghệ An và phú Thọ…
Chủ yếu dọc các sông.
Ngoài săn bắn, hái lượm,
Để có thêm thức ăn,
Họ chăn nuôi, trồng trọt,
Cuộc sống khá hơn dần.
Gần ba nghìn năm trước,
Dọc theo các triền sông
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
Như sông Mã, sông Hồng,
Có nhiều bộ lạc lớn,
Đã hình thành khắp nơi,
Chung phong tục, ngôn ngữ,
Hùng mạnh và đông người.
Trong đó, hùng mạnh nhất
Là bộ lạc Văn Lang
Ở Việt Trì, Phú Thọ,
Sống trong các bản làng.
Khoảng thế kỷ thứ bảy
Trước Công Nguyên, một người,
Một thủ lĩnh tài giỏi
Của Văn Lang ra đời.
Ông nhanh chóng khuất phục
Các bộ lạc bốn phương,
Thanh thế rất mạnh mẽ,
Rồi tự xưng Hùng Vương.
Ông lập một nước mới,
Đặt tên là Văn Lang,
Đóng đô ở Phú Thọ,
Thuộc thời đại Hồng Bàng.
Đất nước ấy rộng lớn,
Gồm Bắc Bộ bây giờ
Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
Phong cảnh đẹp, nên thơ.
Nước có mười lăm bộ,
Giống huyện quận ngày nay,
Đứng đầu là Lạc Tướng.
Bên dưới các bộ này
Có rất nhiều chiềng, chạ,
Tương đương như xã, làng,
Đứng đầu là Bồ Chính,
Chức quan thời Văn Lang.
Nhà nước chưa có luật,
Cả quân đội cũng không.
Mỗi khi có chiến sự,
Các trai tráng một lòng
Theo lệnh vua chiến đấu.
Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
Lo các việc chính sự
Có các quan Lạc Hầu.
Kiểu cha truyền con nối,
Các vua lên ngai vàng.
Mị Nương là công chúa.
Hoàng tử là Quan Lang.
Là một nước nông nghiệp,
Dân nước ta bấy giờ
Giỏi về canh tác lúa,
Biết dệt vải, thêu thùa.
Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
Phát hiện ở Hà Nam
Và một số trống khác
Cũng người thời ấy làm.
Họ còn biết dùng sắt
Đúc vũ khí, lưỡi cày.
Đánh cá, nuôi gia súc,
Đóng thuyền và trồng cây.
Vì còn nhiều thú dữ
Nên dân ở nhà sàn.
Nhà làm bằng tre nứa,
Tường là các tấm đan.
Nam giới chỉ đóng khố.
Nữ mặc váy, yếm che.
Chân trần, đầu thường đội
Một vòng lông chim xòe.
Dân Văn Lang thời ấy
Xăm mình, nhuộm răng đen.
Theo chế độ mẫu hệ
Và thờ cúng tổ tiên.
Vào những ngày lễ hội
Họ tổ chức đua thuyền,
Thi giã gạo, làm bánh,
Trong tiếng trống, tiếng kèn…
Nước Văn Lang thế đấy,
Có từ thời xa xưa.
Một đất nước rộng lớn.
Các cháu nghe, nhớ chưa?
Bây giờ ông sẽ kể
Câu chuyện cổ tích này,
Xẩy ra vào thời ấy.
Về bánh chưng, bánh dày.
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DÀY
Đời Hùng Vương thứ sáu,
Khi giặc Ân không còn,
Vua có ý thoái vị,
Muốn nhường ngôi cho con.
Vua gọi các hoàng tử,
Nhân năm mới, đầu xuân:
“Các con tìm lễ vật
Cùng nước uống, thức ăn
Làm sao thật ý nghĩa
Để thờ cúng đất trời,
Cúng thần linh, tiên tổ,
Đẹp dáng, đẹp lòng người.
Cuộc thi này đặc biệt,
Phần thắng thuộc về ai
Ta sẽ cho người ấy
Được thừa kế vương ngai.”
Các hoàng tử háo hức
Lên đường đi gần xa,
Tìm của ngon vật lạ,
Mong nối ngôi vua cha.
Con trai thứ mười tám,
Có tên là Lang Liêu,
Vốn hiền hậu, hiếu thảo,
Đáng khen đủ mọi điều.
Mẹ không may chết sớm,
Việc thờ cúng tổ tiên
Chàng còn chưa được dạy,
Nên lo lắng, buồn phiên.
Một đêm, thần báo mộng:
“Suy cho cùng, ở đời
Không gì quý bằng gạo.
Gạo nuôi sống con người.
Vậy con lấy gạo nếp
Làm bánh vuông, bánh tròn.
Vuông tượng trưng cho đất.
Tròn là bầu trời con.
Trong bánh có nhân thịt,
Ngoài gói bằng lá xanh,
Để ghi sâu ơn nặng
Công cha mẹ sinh thành.”
Chàng Lang Liêu tỉnh dậy
Nhớ lời thần, rất mừng,
Làm bánh vuông, luộc chín,
Đặt tên là bánh chưng.
Chàng đồ xôi, giã mịn,
Rồi ngồi vắt bằng tay
Những bánh tròn bọc lá,
Gọi đó là bánh dầy.
Đúng hẹn, các hoàng tử
Mang đến trình vua cha
Nhiều món ăn ngon lạ
Của các miền gần xa.
Còn Lang Liêu, khiêm tốn,
Dâng bánh chưng, bánh dày.
Chàng nói rõ ý nghĩa
Của các loại bánh này.
Vua đích thân nếm thử
Thấy rất ngon, và rồi
Chàng là người được chọn
Để vua cha truyền ngôi.
Từ đó, Tết Nguyên Đán
Người dân khắp mọi miền
Làm hai loại bánh ấy
Cúng đất trời, tổ tiên.
8
NƯỚC ÂU LẠC
Đời Hùng Vương Mười Tám,
Tức thế kỷ thứ Ba,
Trước Công Nguyên, hẳn thế,
Nước Văn Lang chúng ta
Không yên bình như trước.
Vua quan lo ăn chơi,
Không lo chuyện phòng vệ.
Dân đói ăn nhiều nơi.
Trong khi đó, Phương Bắc,
Vua Tần, Tần Thủy Hoàng,
Vào năm Hai Một Tám,
Cho đánh chiếm Văn Lang.
Người Lạc Việt lúc ấy
Sống cùng người Tây Âu,
Còn gọi người Âu Việt,
Có quan hệ từ lâu.
Họ hợp sức chiến đấu.
Quân giặc mạnh và đông,
Giết thủ lĩnh Âu Việt,
Nhưng họ không nản lòng.
Sử cũ Trung Quốc chép
Về quân dân Văn Lang:
“Người Việt bỏ lên núi,
Nhất quyết không đầu hàng.
Ngày án binh bất động,
Đêm quấy nhiễu quân Tần.
Họ tôn một hào kiệt
Để lãnh đạo toàn dân.”
Hào kiệt ấy, Thục Phán,
Vừa có đức, có tài,
Ngăn được bọn xâm lược,
Làm chiến tranh kéo dài.
Sáu năm trời ròng rã
Quân giặc bị giam chân.
Trong một trận quyết chiến,
Quân Việt thắng quân Tần.
Tướng giặc bị giết chết,
Là Hiệu Úy Đồ Thư.
Nhà Tần phải ra lệnh
Cho rút quân từ từ.
Vào năm Hai Không Bảy,
Sau chiến thắng không lâu,
Thục Phán lên ngôi báu.
Lạc Việt và Tây Âu
Được sáp nhập làm một,
Một nước mới ra đời,
Có tên là Âu Lạc,
Đất rộng và đông người.
Kinh đô của Âu Lạc
Đóng ở vùng Cổ Loa,
Một vùng đất bằng phẳng,
Cách Bờ Hồ không xa.
An Dương Vương Thục Phán
Sau khi lên ngai vàng,
Giữ nguyên bộ máy cũ
Của vua Hùng Văn Lang.
Nước vẫn chia thành bộ,
Có Lạc Tướng, Lạc Hầu,
Bồ Chính và chiềng chạ…
Vốn tồn tại từ lâu.
Đất nước đã phát triển,
Trước hết là nghề nông,
Nghề chăn nuôi, dệt vải,
Rồi các nghề thủ công.
Dân số gia tăng mạnh.
Rồi khoảng cách giàu nghèo
Cũng gia tăng tương ứng,
Rồi mâu thuẫn tăng theo.
*
Các cháu nghe, hiểu chứ?
Giờ ông kể vì sao
Âu Lạc đã sụp đổ,
Và trong hoàn cảnh nào.
Thục Phán cho xây dựng
Ở kinh đô của mình
Một khu thành bằng đất,
Sau gọi là Loa Thành.
Sử cũ chép: “Thành ấy
Rộng nghìn trượng, hình tròn,
Như chiếc loa vỏ ốc…”
Nay di tích vẫn còn.
Với ba vòng khép kín,
Tường thành này rất dài,
Những mười sáu nghìn mét,
Nếu ông nhớ không sai.
Mặt thành khoảng mười mét.
Chiều cao - năm đến mười.
Chân thành, để đứng vững,
Có chỗ rộng hai mươi.
Có hào sâu đầy nước
Bao bọc xung quanh thành,
Thông với một đầm lớn,
Dành cho các thủy binh.
Giữa là khu Thành Nội,
Nơi ở của Hoàng Gia,
Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng
Gia nhân và người nhà.
Cổ Loa, thành xưa ấy,
Không chỉ là kinh đô,
Mà còn một chiến lũy,
Cùng quân đội, lương kho.
*
Đất nước mới thành lập,
Được ít năm yên hòa
Thì có họa xâm lược
Từ phía quân Triệu Đà.
Triệu Đà là viên tướng
Được vua Tần ủy quyền
Cai quản xứ Lưỡng Quảng
Và những vùng kề bên.
Vào năm Hai Không Bảy,
Nhà Tần yếu, Triệu Đà
Lập nên nước Nam Việt
Ở vùng đất giáp ta.
Chẳng bao lâu sau đó
Triệu Đà đã dấy binh,
Rắp tâm đánh Âu Lạc,
Những tưởng sẽ thắng nhanh.
Tuy nhiên, quân Âu Lạc,
Có lợi thế đất nhà,
Tướng giỏi, vũ khí tốt,
Nên hắn thua, xin hòa.
Vào năm Một Bảy Chín,
Hắn lần nữa xuất quân
Sau khi đã ly gián
Thục Phán và triều thần.
Do không còn tướng giỏi,
Không chủ động phòng xa,
Đất nước ta, Âu Lạc,
Lọt vào tay Triệu Đà.
Vậy là các cháu thấy,
Thục Phán An Dương Vương,
Chỉ vì do khinh xuất,
Mà phải chết thảm thương.
Cũng bắt đầu từ đó,
Suốt một nghìn năm dài,
Dân ta là nô lệ
Của phong kiến nước ngoài.
Trong suốt nghìn năm ấy
Không khuất phục, đầu hàng,
Dân Đại Việt nổi dậy,
Lập nhiều trang sử vàng.
Giờ thì ông sẽ kể
Một truyền thuyết đau lòng
Liên quan đến Thục Phán
Và con gái của ông.
(Ngày mai đăng tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét