Nhìn nợ công lo an toàn hệ thống ngân hàng
Các ngân hàng nắm giữ một lượng lớn trái
phiếu Chính phủ trong danh mục đầu tư nên mỗi sự biến động từ giá trái phiếu là
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản và vốn thuần của ngân hàng.
Trước
Quốc hội, Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh báo cáo: “Theo Luật Nợ công, nợ công gồm có
nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trên
tinh thần như vậy thì nợ công tính đến 31/12/2012, tương đương 55,5% GDP” - vẫn
trong ngưỡng an toàn.
Nhưng
“tính đầy đủ, thì số nợ công thực tế của Việt Nam đã lên đến gần 129 tỷ USD,
gần gấp đôi con số được Chính phủ công bố, lên đến 106% GDP, nghĩa là đã ở mức
tiền khủng hoảng”, nhận định này được đưa ra tại buổi hội thảo về nợ công của
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Và cũng tại nghị trường, nhiều đại biểu
đã tỏ ý lo ngại và cảnh báo “tránh nguy cơ nợ công”.
Nhìn
lại diễn biến và hệ lụy cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu và những biểu hiện
gần đây về tình hình ngân sách (NS), tình hình sử dụng và phát hành trái phiếu
Chính phủ và một số quan điểm tăng nợ, tăng bội chi để thoát khỏi tình trạng
khó khăn hiện thời, không thể không cảnh giác về sự nguy hiểm với nợ công ở
Việt Nam.
Nợ công vẫn tăng nhanh
Theo
bản tin nợ công số 1 của Bộ Tài chính, dư nợ của Chính phủ đến năm 2010 là
889.388 tỷ đồng (tương đương 47 tỷ USD), đến năm 2011 là 1.096.775 tỷ đồng,
tương đương 52,7 tỷ USD. Nợ được Chính phủ bảo lãnh tính đến năm 2010 là
225.953 tỷ đồng (11,9 tỷ USD), đến năm 2011 tăng lên 285.124 tỷ đồng (13,7 tỷ
USD).
Nhìn
về tỷ lệ thì nợ công vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng nhìn về tốc độ, nợ công
đang tăng nhanh, nợ trong nước cũng tăng nhanh trong những năm gần đây.
Còn
theo bản báo cáo “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và
tương lai” do một nhóm chuyên gia thuộc trường Đại học Kinh tế Quốc dân thực
hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát
chính sách kinh tế vĩ mô” của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội vừa công bố thì, với
mức độ thâm hụt NS và tốc độ tăng nợ công bù đắp thâm hụt NS những năm vừa qua
và dự báo những năm tới, tính toán đầy đủ các khoản nợ được gọi là nợ công đúng
nghĩa, thì nợ công được cho là khá nguy hiểm.
“Có
thể nhận thấy rằng, trong mọi kịch bản nợ công/GDP đều có xu hướng tăng dần
theo thời gian do thâm hụt NS cơ bản tiếp tục diễn ra”, bản báo cáo trên cho
biết.
Nếu
tính đầy đủ các khoản nợ nước ngoài của khu vực DN mà chủ yếu là DNNN không
được Chính phủ bảo lãnh chiếm 10,6% GDP, nợ trong hệ thống ngân hàng của khu
vực DNNN khoảng 16,5% GDP cộng với các khoản nợ bằng trái phiếu trong nước
không được Chính phủ bảo lãnh khác của DNNN, thì nợ công Việt Nam sẽ lên tới
xấp xỉ 95% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn (60%) mà WB và IMF khuyến cáo.
Trông người lại ngẫm đến
ta
Với
tình trạng kinh tế suy giảm, thu NS rất khó khăn, thâm hụt NS năm 2013 vẫn ở
mức cao, dự kiến thâm hụt khoảng 162.000 tỷ đồng và phát hành trái phiếu để bù
đắp vẫn là chủ yếu. Nhìn lại năm 2012, nguồn bù đắp bội chi từ vay trong nước
115.500 tỷ đồng, vay nước ngoài 24.700 tỷ đồng. Và phát hành trái phiếu Chính
phủ cũng đã liên tục tăng nhanh trong những năm qua. Bộ Tài chính cho biết phát
hành trái phiếu Chính phủ trong nước năm 2010 được 68.292 tỷ đồng, năm 2011 đạt
80.447 tỷ đồng và năm 2012 là 160.000 tỷ đồng.
Để
bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Thế nhưng,
như TS.Vũ Đình Ánh phân tích thì “do số nợ vay được sử dụng vào những mục đích
không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vào phát hành nợ mới,
đặc biệt là vay trong nước. NSNN Việt Nam đang đứng trước “vòng xoáy” nợ nần
với quy mô nợ Chính phủ ngày càng lớn”. Nhìn vào dự toán NS năm 2013 ông Ánh
cho rằng “vẫn phải thực hiện biện pháp phát hành để đảo nợ và giãn trả các
khoản vay từ các quỹ tài chính Nhà nước”.
Tuy
nhiên, việc kéo dài thâm hụt NS, phải phát hành trái phiếu để bù đắp kéo theo
nợ công tăng nhanh, ngoài những nguy cơ về một cuộc khủng hoảng nợ, trong dài
hạn nó còn tác động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là khi các NHTM
đang là khách hàng chính trong các phiên đấu thầu trái phiếu và đang nắm giữ
một lượng lớn trái phiếu.
Tại
hội thảo về nợ công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, diễn giả Hoàng
Thuỳ Linh (Viện Chiến lược Ngân hàng – NHNN) đã nhắc lại mối liên hệ giữa khủng
hoảng nợ công ở châu Âu và sự an toàn của khu vực ngân hàng. Diễn giả Thuỳ Linh
cho rằng, khủng hoảng nợ công là sự tiềm ẩn nguy cơ gây khủng hoảng cho hệ
thống ngân hàng, giữa khủng hoảng nợ công và khủng hoảng ngân hàng có những tác
động qua lại mật thiết. Ý kiến này đã nhận được nhiều sự đồng thuận.
Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy nếu không kịp nhìn ra để có giải pháp phòng ngừa thì
khi một quốc gia đã rơi vào khủng hoảng nợ dễ dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân
hàng. Các ngân hàng nắm giữ một lượng lớn trái phiếu Chính phủ trong danh mục
đầu tư nên mỗi sự biến động từ giá trái phiếu là ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài
sản và vốn thuần của ngân hàng. Điều này sẽ tác động tiêu cực đến khả năng cho
vay của NHTM và dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng thanh khoản, khủng hoảng tín
dụng, thậm chí còn khiến tình hình tồi tệ hơn.
Tuy
còn sớm để lo cho hệ thống ngân hàng ở Việt Nam nhưng không thể không nhắc đến
để cảnh giác khi nợ công ở Việt Nam đã thực sự không còn an toàn như những con
số thống kê trong nước, nhất là khi đó đây vẫn còn những quan điểm cần nới trần
nợ công, tăng bội chi NS hòng thoát khỏi tình trạng kinh tế trì trệ hiện nay.
GS.TS Đỗ Đức Bình-Trường
Đại học Kinh tế quốc dân
Thực tế đã khẳng định rằng ở đâu
buông lỏng kiểm tra, kiểm soát và giám sát đối với vay nợ và chi tiêu của
Chính phủ, thì ở đó đã phải trả giá rất lớn không chỉ về những tổn thất về
kinh tế mà còn có những bất ổn cả về chính trị, xã hội và Việt Nam không thể
ở ngoài tình trạng này.
Một chỉ tiêu khác gắn với nợ công
và sự ổn định kinh tế vĩ mô là mức thâm hụt NS. Mức thâm hụt NS an toàn là
không quá 3%. Nhưng thâm hụt NS của Việt Nam luôn cao, vượt qua giới hạn an
toàn. Mức thâm hụt năm 2005 là 4,05%, năm 2006 là 5%, năm 2007 là 5%, năm
2008 là 4,95%, năm 2009 là 6,9%, năm 2010 là 5,8% và năm 2011 là 5,5%, năm
2012 là 4,8%. Đồng thời hiệu quả đầu tư lại tỷ lệ nghịch với các khoản vốn
vay ngày một lớn.
Việt Nam sẽ còn phải nợ để đáp
ứng nhu cầu đầu tư phát triển nhưng việc vay vốn này phải được tính toán, cân
nhắc thận trọng để đưa ra các quyết định lựa chọn tối ưu, vừa đáp ứng yêu cầu
phát triển, vừa đáp ứng hiệu quả sử dụng vốn vay. Việc vay và trả nợ phải nằm
trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công và đảm bảo an ninh tài chính
của quốc gia.
TS. Bùi Trường Giang-Vụ
Tổng hợp Văn phòng Chủ tịch nước
Trong 10 năm lại đây, nợ công của
Việt Nam tăng nhanh một cách đáng lo ngại và có cơ cấu kém bền vững. Do vay
nợ nước ngoài nhiều nên Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương một khi thế giới có biến
động lớn. Với tốc độ tăng nợ công những năm qua lên tới 15%/năm thì đã gần
ngang với tốc độ tăng 17-21%/năm của thu NS, như vậy vài ba năm nữa nguồn NS
tăng thu chỉ đủ để bù trả nợ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh cũng tăng nhanh
trong những năm qua làm gia tăng nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN .
Nhìn bề ngoài có vẻ nợ không đáng
ngại nhưng phân tích tình hình kinh tế và tình hình nợ cũng như quản lý nợ
thì thấy rằng Việt Nam có điểm giống những nước có tỷ lệ nợ cao ở châu Âu như
Hy lạp, Ý, Bồ Đào Nha… và tính bền vững của nợ Việt Nam đang suy giảm. Trước
tình hình này, không ít ý kiến cho rằng Việt Nam đang đứng trước những rủi ro
nợ tiềm ẩn.
PSG.TS. Lưu Ngọc Trịnh-Viện
Kinh tế chính trị và thế giới
Cuộc khủng hoảng nợ cho thấy tất
cả các nước rơi vào vòng xoáy nợ công đều có kỷ luật tài khoá lỏng lẻo, tình
hình thực hiện chi NS cuối năm luôn vượt xa Nghị quyết của Quốc hội về chi NS
được công bố đầu năm; Phân bổ nguồn vốn dễ bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu
chính trị nhiều hơn mục tiêu kinh tế; Hiệu quả sử dụng vốn thấp và trách
nhiệm của người đi vay không cao.
Để không bị cuốn vào khủng hoảng
nợ công, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam - một trong những
nước đang tiềm ẩn nhiều rủi ro về nợ công cần tránh: vay nợ quá nhiều, không
nên chấp nhận lãi suất vay cao hơn lãi suất NHTM, không nên coi trọng mục
tiêu chính trị ngắn hạn hơn hiệu quả kinh tế dài hạn và cần công khai minh
bạch kịp thời tình hình nợ công và các vấn đề liên quan đến nợ công…
|
Theo Linh Đan
Thời báo ngân hàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét