31 thg 10, 2013

Sự tồn vong chế độ là những kẻ này sao?

Ông Đoàn Văn Khải CT Công đoàn NHCSXH khẳng định:
"Trước vong linh của các anh hùng liệt sỹ, chúng tôi cam kết không có bất kỳ hành vi
 trục lợi, thông đồng, tiếp tay nào.


29 thg 10, 2013

Sao vẫn nhiều người bị lừa thế?


Ông Ng Văn Bình nghĩ gì 8 tỉ đồng cho "cậu Thủy"?

Ông Nguyễn Hoàng Phương, Phó Chủ tịch Công đoàn Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) - người được lãnh đạo NH này giao quyền phát ngôn mọi thông tin liên quan đến sự việc trên – thừa nhận khi trao đổi với báo 
Như đã thông tin, ngày 28/10, Cơ quan CSĐT Quảng Trị đã bắt tạm giam “nhà tâm linh” Nguyễn Thanh Thúy – tức “cậu Thủy” do liên quan đến nghi ngờ làm giả mộ liệt sĩ để trục lợi. “Cậu” chính là người đã được VBSP “bồi dưỡng”  75 triệu đồng/bộ hài cốt liệt sĩ, tổng cộng 7,9 tỷ đồng.
Trước cáo buộc sử dụng ngân sách để chi cho việc làm này, ông Nguyễn Hoàng Phương – Phó chủ tịch Công đoàn – Ngân hàng CSXH cho biết, VBSP có thành lập quỹ, ban đầu là quỹ tìm mộ Liệt sĩ, sau đó hồi tháng 1/2013 lại nhập vào quỹ An sinh xã hội. Quỹ này sử dụng làm từ thiện như xóa đói giảm nghèo, xây trường học…
“Quỹ này do toàn bộ hệ thống ngân hàng đóng góp mỗi năm 4 ngày lương/người. Hoàn toàn không sử dụng ngân sách, không lấy từ chi phí hoạt động chuyên môn”, ông Phương cho biết.
Tuy nhiên, VTV cáo buộc: Sau 4 cuộc liên kết với ngân hàng này trong chưa đầy 8 tháng, cậu Thủy đã thu tiền công 7,9 tỷ đồng, chưa kể hàng chục vụ lẻ có Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cùng đi. Quỹ An sinh còn chi nhiều khoản và nhiều vụ khác nữa, lấy đâu ra 8 tỷ đồng rải ngân cho “cậu Thúy”, chưa kể chi phí hoa hồng cho hàng trăm người mặc áo xanh có mặt và tham gia tìm hài cốt. Vậy tiền đó ở đâu ra? Theo nguồn tin của cơ quan này, chính Ngân hàng CSXH địa phương mới là nơi xuất tiền. Và các phó chủ tịch UBND các tỉnh giữ chức trong HĐQT địa phương của ngân hàng.
    “Cơ duyên” nào đã đưa VBSP gặp được “Cậu Thủy”? Ông Phương cho biết, một số người là CBCNV trong NH này đã từng nhờ “nhà ngoại cảm” này tìm mộ người thân, thấy thành công và giới thiệu lại cho VBSP. “Ngoài chuyện ngoại cảm, mình cũng nghĩ là nhờ người có kinh nghiệm đi tìm để bớt được ngày công đào bới, chi phí tìm kiếm”, ông Phương nói.
Theo ông, việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ không chỉ trông duy nhất vào nguồn thông tin của nhà ngoại cảm mà phía NH quyết định việc chọn địa điểm, đề xuất nơi tìm kiếm, cậu Thủy sẽ “soi” và đưa ra danh sách liệt sĩ đã hy sinh. Qua danh sách này, VBSP sẽ liên hệ với gia đình để đối chiếu thông tin trước khi tìm kiếm… Nếu gia đình đồng ý, NH sẽ hỗ trợ 100% chi phí tìm kiếm, cất bốc, đi lại. 
Đã kiểm tra kỹ càng, vậy tại sao có những trường hợp, như tại điểm tìm kiếm ở Ea H’leo (Đắk Lắk) lại tìm được liệt sĩ theo giấy báo tử - đã hy sinh ở Quảng Trị, có người hy sinh ở Đông Nam Bộ; Hay có người hy sinh ở Quân khu 9 (Tây Nam Bộ) lại tìm thấy ở Cam Lộ (Quảng Trị)…? Ông Phương không giải thích cụ thể khúc mắc này mà cho rằng: Chúng ta là những người đi sau, không có mặt tại thời điểm đó nên không thể giải thích được. Ông ví dụ, có trường hợp đơn vị đóng quân ở Bà Rịa Vũng Tàu, khi xảy ra đánh nhau, một đơn vị pháo binh được điều lên Tây Ninh, người liệt sĩ này thuộc đơn vị thông tin, do thiếu người cũng đã được điều lên theo và hy sinh tại đây. Nếu không điều tra kỹ, không tìm được nhân chứng thì sẽ rất khó giải thích. Theo ông, có những trường hợp từ lúc đặt vấn đề tới lúc cất bốc chỉ có 16 ngày, làm sao có thể làm giả?
Lãnh đạo địa phương đều đã biết sự thật?
Ông Phương cũng khẳng định, việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ hoàn toàn công khai, có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng các địa phương trong việc tham gia, giám sát. Trong quá trình cất bốc, Sở LĐ-TB-XH đều phối hợp để ghi nhật ký quy tập, ký biên bản bàn giao hài cốt, làm lễ truy điệu... Với những ý kiến trái chiều của địa phương, ông Phương nói: Trong buổi quy tập không có ý kiến nào, không ai phản đối, ngăn cản. Sau này, Sở có phát biểu như thế nào là ý kiến chủ quan của một cá nhân anh Mãn (Phó giám đốc Sở LĐ-TB-XH Bình Phước), tôi không có ý kiến gì bình luận. 
Sở LĐ-TB-XH Bình Phước đã có cơ sở để nghi ngờ một số hài cốt liệt sĩ bị làm giả khi khai quật ở Bình Long. Các mẫu xương từ Bình Phước gửi ra không phải xương người và những dòng chữ khắc trên các Bi đông di vật mới được làm chưa lâu. Sự việc đã được Sở LĐ-TB-XH Bình Phước báo cáo lên lãnh đạo UBND tỉnh. Tuy nhiên, do sức ép của công tác đền ơn đáp nghĩa, lãnh đạo tỉnh vẫn phải ký vào quyết định quy tập, tổ chức tiếp nhận, truy điệu… Tuy nhiên, theo ông Phương, lúc đó không phát hiện có dấu vết làm giả. Việc quy tập cũng đã được quay - truyền hình trực tiếp, chiếu trên màn hình lớn cho hàng ngàn dân xem. 
Trong vụ quy tập mới diễn ra vào ngày 25/7 tại Quảng Trị, mặc dù VTV đã cảnh báo, UBDN tỉnh Quảng Trị vẫn cho tiến hành quy tập. Trong công văn tỉnh gửi xuống các sở, và Bộ chỉ huy quân sự thậm chí còn ghi rõ sẽ quy tập được 3 Liệt sĩ có tên cụ thể kèm di vật là gì.
Dân quân Quảng Trị đào đối chứng, dù cố gắng nhưng cũng chỉ được 20 cm trong khi hố hài cốt gần đó có thể đào tay sâu 1m
Biết trước sự bất thường, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị tự khảo sát và không cho người ngoài được khai quật, mà chỉ được đứng xem.
Trước sự cương quyết của Bộ chỉ huy quân sự Quảng Trị, nhà ngoại cảmNguyễn Thanh Thúy (tức cậu Thúy) vẫn khẳng định: “Hỗ trợ thì bên Tỉnh đội hỗ trợ thoải mái, nhưng khi bốc thì dù có quy tập đi chăng nữa “cậu” cũng không cho bốc. Vẫn là quân của mình trực tiếp “mang cái tâm” xuống bốc”.
“Cậu Thúy” còn khẳng định, bộ hài cốt được xác định là của Liệt sĩ Nguyễn Như Hổ (sinh năm 1949, nhập ngũ tháng 12/1967), ở độ sâu khoảng 95cm – 1m.
Và một loạt những dấu vết khiến người ta nghi ngờ: đất đã được đào bới nên tơi xốp, đào bằng tay được gần 1m; Rễ cây bị chặt chưa lâu. Trong khi dân quân đào đối chứng gần 3 miệng hố trên, cũng bằng tay nhưng chỉ được tối đa 20cm.
Có mặt tại hiện trường, Đại tá Trần Minh Thanh, chính ủy Bộ chỉ huy quân sự Quảng Trị cho biết: “Nếu chúng tôi không làm hết trách nhiệm của mình, thì chúng tôi có tội với vong linh người đã khuất. Sau sự việc trên, chúng tôi có thể kết luận rằng, những nơi có hài cốt, di vật trên đó là những nơi đã được chuẩn bị và đào sẵn để đưa xuống”.
Ngân hàng CSXH xin làm việc với Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị, và xin Bộ Chỉ huy du di công nhận hài cốt Liệt sĩ.

Tin nhắn được cho là của Tổng giám đốc VBSP, đốc thúc việc công nhận hài cốt. Thậm chí, người nhắn còn nói, nếu cần sẽ vào "chiến đấu"
Trong buổi làm việc với Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Trị, đoàn ngân hàng đã liên tục được chỉ đạo từ xa. Thậm chí, tổng giám đốc VBSP Dương Quyết Thắng liên tục nhắn tin đốc thúc.

Viện Pháp y quân đội đã lấy mẫu hài cốt từ Lâm Xuân gửi lên Viện Công nghệ sinh học, Công an Quảng Trị cũng lấy các Bi đông trong 9 tiểu sành chuyển tới viện Phòng Khoa học hình sự Bộ Công an.

Tin hay không ?

   Hôm trước anh bạn tôi có kể Phan Thị Bích Hằng về xã Kim Anh Kim Thành Hải Dương, gặp gỡ dòng tộc họ Phan ở đây, nghe kể tôi chỉ cười. Hôm nay mời các bạn xem clip này để hiểu thế nào về nhà ngoại cảm. Tôi không có lời bình, chờ mong lời bình của các ban.

27 thg 10, 2013

Ai đứng sau những chuyện thất đức này?

   Chắc dân không lừa chính quyền chỉ muốn nói sự thật, họ là những nạn nhân trong vụ tìm hài cốt giả, mà kẻ lừa đảo lại là những kẻ đã từng ngồi bóc lịch trong tù, có nhiều tiền án tiền sự. Thử hỏi những kẻ này sao mà trở thành người tử tế? Vong linh những người liệt sĩ họ không thể về phù hộ sự thịnh vương của chế độ mà gia đình họ bị lừa gạt như vậy, ngân hàng chính sách xã hội họ dùng tiền của dân bảo kê những việc làm thất đức như thế? Ai đã xem clip này không thể ngôi yên, niềm tin bị đánh mất từ đây!
    Họ lừa được cả những người mà ta thường gọi là  "quan của dân".

VÌ SAO LÒNG DÂN CHƯA AN?

 được trích đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 25.10.2013
Tương Lai 
     Quả thật đã khá lâu trên mặt báo “chính thống” mới thấy xuất hiện những ‎ý kiến thật lòng từ một người giữ trọng trách trong bộ máy cầm quyền nói vềlòng dân đúng với nghĩa như nó vốn có. Chính vì thật lòng nên mới đặt ra được câu hỏi khá thiết thực ” làm cách gì để đo được lòng dân“. Cũng vì thật lòng mà dám quyết liệt phê phán sự bằng lòng với kiểu đánh giá “trong nước kinh tế – xã hội ổn định, đó là một đánh giá đúng” nhưng xem ra đó lại là lẩn tránh sự thật, vì “không thấy được những yếu tố bất ổn ở trong lòng sự ổn định đó thì chúng ta sẽ giống như ngủ mê“. Người đánh thức sự “ngủ mê” ấy lại là bà Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, đại biểu Quốc hội.
     Không thể “ngủ mê” khi mà nền kinh tế của ta có nguy cơ tụt hậu so với cả Campuchia và Lào nếu không đổi mới quyết liệt như cảnh báo của Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư. Trong khi tốc độ tăng trưởng của ta chậm lại thì một số nước trong khu vực ASEAN đã có sự cải thiện rõ rệt, Mianma là ví dụ nổi bật : tăng từ 5,6% năm 2011 lên 7,6% năm 2012. Ngủ mê sao được khi nguy cơ “vỡ trận tài chính” trong năm 2014 và rồi triển vọng trung hạn 2013-2015 cũng không mấy sáng sủa. Làm sao còn “mê ngủ” khi mà kinh tế của ta đang ”mò đáy” và tê liệt vì các doanh nghiệp thi nhau  phá sản hay đóng cửa từ 2011. Nạn thất nghiệp gia tăng vũ bão (tỷ lệ thất nghiệp được một số giới cho là trên 10% thay vì con số chính thức là 2%) gây ra các tệ nạn xã hội đáng báo động…Đó là những điều đã đặt ra tại hội thảo mùa Thu của Ủy ban kinh tế Quốc hội (26-27/9/2013) ở Huế .
Rõ ràng không thể ngủ mê trước quy luật nghiệt ngã của kinh tế, gắn liền với sự tụt hậu là miếng bánh nhận được chia sẽ ít hơn trong thế giới hội nhập và theo sau nó là vấn nạn về việc làm và an sinh xã hội. Chẳng những thế, sẽ không đủ nội lực để bảo vệ Tổ quốc mà mỗi thước núi, tấc sông đều thấm đẫm máu của bao thế hệ Việt Nam trong khi kẻ thù đang trăm phương nghìn kế nhằm nuốt trọn Biển Đông, đè bẹp ý chí của một dân tộc từng là sức cản ngăn chặn không cho chúng bành trướng thế lực xuông vùng Đông Nam Á.
Để “đánh thức” đừng “ngủ mê” nữa, bà nghị sĩ đòi hỏi “sự nghiêm túc tự vấn lương tâm và trách nhiệm , một vấn đề mang tính “kinh điển” khi bàn về đạo lý và quyền lực. Một vấn đề thật là hóc búa và e là điều không tưởng đối với “một bộ phận không nhỏ” đang ngày càng phình to ra tỷ lệ thuận với quá trình đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Mà thật ra, điều này chẳng có gì khó hiểu, từ thế kỷ 19, người ta đã đúc kết thành quy luật rồi :quyền lực có xu hướng tham nhũng, quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối [power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely" Lord Acton]. Corrupt trong tiếng Anh còn có nghĩa là tha hóa. Ông Tổng bí thư thì diễn đạt điều này một cách nôm na trong tiếp xúc cử tri quận Ba Đình ngày 27.9.2013 là : Tham nhũng lớn có, tham nhũng vặt cũng nhiều. Chỉ ra khỏi nhà đã thấy cái gì cũng cần tiền, không tiền là việc không “trôi” khiến người dân rất khó chịu, ngột ngạt”.
Sự “khó chịu, ngột ngạt” mà ông Tổng Bí thư nói chính là điều bà Chủ tịch HĐNDTPHCM băn khoăn đặt ra câu hỏi : “chúng ta đang ngày càng vùng vẫy trong những khó khăn đến mức nghẹt thở như vậy? Báo cáo cứ nhận khuyết điểm, nghe có vẻ như thành thật lắm nhưng có lẽ chưa có sự nghiêm túc tự vấn lương tâm và trách nhiệm nên chưa có được giải pháp hiệu quả để xoay chuyển tình thế chăng? “Báo cáo” nói ở đây là “Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội”.
Thế nhưng chuyện “nghiêm túc tự vấn lương tâm và trách nhiệm” để “xoay chuyển tình thế” chắc nhà chính khách hôm nay không chỉ đặt ra cho riêng Chính phủ! Thì chẳng phải là chuyện “không có một cơ chế nào để đo lòng dân trước và sau khi đưa ra một chính sách có liên quan đến các tầng lớp nhân dân“, thì cơ chế đó phải được quyết định từ đâu nếu không từ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà thực chất là từ Bộ Chính trị BCHTƯĐCSVN? Đừng quên rằng, trước khi Quốc hội họp, mọi việc đã được quyết định từ Hội nghị BCHTƯ lần thứ 8 vừa bế mạc. Cái “cơ chế” mà bà đại biểu QH đặt ra, trước hết cần nói đến cái “cơ chế” sinh ra từ cái quy trình này. Cái mà nhà sử học người Anh thế kỷ 19 đúc kết “quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng [tha hóa] cũng tuyệt đối” chính là cái “cơ chế” nảy sinh từ cái “quy trình” này đây! Quy trình của một chế độ toàn trị.
Hãy bắt đầu từ cái lớn nhất là Hiến Pháp cho dù ngài Tổng Bí thư đã tuyên bố cái còn lớn hơn là “Cương lĩnh”của Đảng, thì trên nguyên lý được Tuyên bố trước quốc dân đồng bào và trước cả thế giới khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2.9.1945,”nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á” như vẫn được rao giảng, thì vẫn khẳng định đó là”cơ quan có quyền cao nhất của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“.[Chương III, Điều thứ 22, Hiến pháp 1946]. Thế rồi hôm nay, khi bản Hiến Pháp sửa đổi sắp được Quốc hội thông qua, bản Hiến pháp mà Ông Tổng Bí thư cho rằng “nội dung dự thảo về cơ bản đã rất tốt“, “… sửa những cái gì đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh và tạo được thống nhất cao còn cái còn ý kiến khác nhau thì chưa nên sửa…Tôi thấy tất cả nội dung này đã đáp ứng được tư tưởng đó. Tôi tán thành”. Cụ thể hóa chỉ dẫn của ông TBT, ông trưởng Ban biên tập Dự thảo Hiến pháp sửa đổi nêu rõ Bản dự thảo Hiến pháp trình QH đã “phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bám sát cương lĩnh của Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị“.
Thế nhưng, hôm thứ tư, 23.10.2013, báo DÂN TRÍ, Diễn đàn dân trí Việt Nam thì lại chạy một cái tít rất đậm : “Hiến pháp chung chung, dễ bị lạm dụng, dân còn bất an”. Đại biểu Trương Trọng Nghĩa sau khi thiết tha đề nghị :” Quốc hội sẽ ghi nhận những đóng góp của nhân dân đối với bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp” thì vạch rõ : “Bởi nếu những kiến nghị và đóng góp này không được tiếp thu thì đó là một lãng phí rất lớn đối với tinh hoa và trí tuệ của mọi tầng lớp nhân dân đã gửi gắm vào Quốc hội. Điều đó cũng thể hiện việc chúng ta đã bỏ lỡ một cơ hội để đẩy đất nước lên một tầm phát triển cao hơn, thông qua việc đổi mới về hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới về kinh tế …”  
Đại biểu Nghĩa nêu cụ thể những bất cập của Hiến pháp vưa được trình QH : “Trong bản Dự thảo Hiến pháp sửa đổi có một số câu chữ bị sửa đi so với Hiến pháp năm 1992. Theo nhận định của tôi, việc sửa chữa này đã làm giảm bớt đi sự bảo vệ của quyền tự do dân chủ chứ không phát huy hơn...các quyền con người thì không có thể nói rằng là phải theo khuôn khổ luật pháp, bởi để đảm bảo quyền con người chúng ta sẽ ban hành một số đạo luật, nhưng vì gắn vào cái đuôi “theo quy định của pháp luật” thì Hiến pháp đã bị hạn chế bởi một cơ sở pháp lý thấp hơn….Có những chỗ sửa chữa nhìn vào có vẻ vô hại nhưng sau này áp dụng thì sẽ tạo điều kiện cho những người muốn lợi dụng để hạn chế quyền tự do dân chủ của nhân dân…Hiến pháp không nên đặt vấn đề thành phần kinh tế nào là chủ đạo, bởi như vậy là đã hiến định việc phân biệt đối xử. 20 năm qua, việc hiến định phân biệt đối xử này đã mang lại nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế.
 Tiếp theo vấn đề được cho là “lớn nhất” ấy, vấn đề “Luật đất đai”, một vấn đề đang bức xúc trong tâm trạng quần chúng nhân dân, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ, tạo nên sự bất ổn xã hội kéo dài, cũng sẽ được đưa ra QH biểu quyết thông qua trong kỳ họp này. Nỗi ám ảnh khiếu kiện về việc nhà nước thu hồi đất vẫn phủ bóng lên đời sống xã hội và lan tỏa trên diễn đản và trong các buổi thảo luận của các đoàn đại biểu QH. “Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” như điều 54 trong Dự thảo gây lo ngại sẽ tiếp tục đẩy tới khiếu kiện. Sự cần thiết bỏ cái đuôi “do luật định” theo đại biểu Nguyễn thị Quyết Tâm “là vì trên thực tế có thể có văn bản pháp luật dễ làm cho người thi hành lạm dụng, lợi dụng làm giàu bất chính, và điều đó làm cho dân bất an“.
Làm sao mà “an” được khi “trong cả thế giới chỉ có mỗi Việt Nam là dùng khái niện “thu hồi đất” như TS. Phạm Sỹ Liêm, Phó chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam nêu lên trong buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề “Sửa Luật Đất đai: Cơ chế thu hồi và định giá đất” ngày 18/10 do VnEconomy tổ chức. Giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi trường thì  nói rõ : “Với tư cách của một chuyên gia, bản thân tôi mong muốnLuật Đất đai sắp tới cũng như các luật khác phải có quy định quy hoạch chỉ được phê duyệt khi đạt được sự đồng thuận của cộng đồng dân cư nơi có đất. Đây cũng là một quy định được thấy trong hệ thống luật pháp của hầu hết các nước công nghiệp phát triển“. Ông khẳng định :” Trong Luật Đất đai sắp tới, tôi cho rằng, nhiệm vụ quan trọng nhất là tìm được cơ chế xác định thật khách quan giá đất phù hợp thị trường để tính toán giá trị bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đấtNếu không làm được việc này, thì chắc chắn, khó giảm được lượng khiếu kiện của dân“.
Rõ ràng là, chênh lợi ích giữa thu hồi đất và cơ chế thỏa thuận bồi thường với doanh nghiệp, người dân sẽ lại khiếu kiện. Nhưng thu hồi đất không nêu rõ trong Hiến pháp, để luật định cũng dễ bị lạm dụng, người dân lại bất an…Đó là một trong những vấn đề được đặt ra trong phiên thảo luận tại tổ của đại biểu Quốc hội về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, diễn ra ngày 23.10.2013 như báo Dân Trí phản ánh. Vậy thì tại sao cả “đại vấn đề” như vậy chưa lý giải được mà người ta vẫn kiên quyết cho là “tốt rồi”?
Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên là chuyên gia của Liên Hiệp quốc, từng tham gia Tổ Tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt trước đây đặt thẳng vấn đề : “Dùng chữ “quyền sử dụng” thay cho “quyền sở hữu” và hy vọng người ta hiểu khác đi cho dân nhờ. Quyền sử dụng là gì và khác với quyền sở hữu ở chỗ nào thì không thấy …đả động tới. Nhưng tôi nghĩ là không bây giờ thì mai sau việc chấp nhận đa sở hữu về đất trong đó có sở hữu tư nhân là chuyện đương nhiên. Nếu làm sớm thì dân đỡ khổ và nhà nước và đảng đỡ bị khinh ghét. Thực chất trong lịch sử ngoài đất thuộc nhà nước/vua chúa, đất đai hầu hết là thuộc tư nhân (tư nhân hay tập thể) nhưng bị nhà nước cưỡng đoạt sau cách mạng. Ngoài ra, tôi cũng không thể hiểu được tại sao nhà nước này chấp nhận sở hữu tư nhân về mọi phương tiện sản xuất có lợi cho người giầu nhưng lại chống việc giao sở hữu tư nhân lại cho dân chúng, phần lớn thuộc nông dân nghèo,  là người chủ thực sự của chúng.
Tiến sĩ Việt phân tích tiếp : khi Hiến pháp viết đất là sở hữu toàn dân thì đó là phiếm chỉ vì đó chỉ là sở hữu của nhà nước, không có sự có mặt của toàn dân về mặt pháp lý ở đây, chỉ có nhà nước làm quyết định (mà toàn dân chẳng có quyền gì). Cơ bản nếu hiểu đúng, thì “quyền sử dụng” đất chỉ là hợp đồng nhà nước cho dân thuê đất,  và trong thời gian  hợp đồng (dù 10,20,50,100 năm) người dân có quyền sử dụng theo hợp đồng, sau đó phải trả lại.
Quyền sở hữu như thế rất khác quyền sử dụngQuyền sở hữu có một số quyền sau: Quyền kiểm soát (control) việc sử dụng, quyền cấm người khác xâm phạm, quyền được hưởng mọi lợi ích kinh tế và phi kinh tế mà nó mang lại,  quyền chuyển sở hữu (bán, cho không)  cho người khác. Các quyền này ở bất cứ nước nào cũng bị hạn chế bởi luật pháp quy hoạch (đất nông nghiệp không được đem xây nhà cho thuê chẳng hạn), lợi ích công, v.v..
Nếu muốn tránh việc nhà nước tùy tiện lấy lại hợp đồng thì dân chúng phải có quyền sở hữu tư nhânNhà nước hoàn toàn có quyền lấy đất vì lợi ích chung theo luật được gọi ở nhiều nước là “eminent domain”. Đối với đất tư nhân, luật các nước đều cho phép nhà nước có quyền trưng dụng vì mục đích công ích, kể cả nhằm mục đích phát triển kinh tế chung. Luật này được gọi là eminent domain. Giá mua là do nhà nước và người bị thu hồi đồng ý với nhau. Nếu không đạt được sự đồng thuận thì nhà nước vẫn có quyền mua, nhưng cá nhân được quyền đưa vấn đề ra tòa án để yêu cầu xử lý dựa trên hai điểm: a) có thực sự là vì lợi ích chung không và b) giá đền bù có hợp lý không, dựa vào đánh giá của chuyên gia đã có quá trình và kinh nghiệm đánh giá tài sản mà hai bên đưa ra. Quan tòa sẽ là người quyết định cuối cùng. Do đó cần có luật về eminent domain.
Tuy nhiên cái khó ở VN là dù có luật, cũng không thể có công lý nếu tòa án không độc lập. Dù sao nếu quá trình này được chấp nhận thì vẫn là bước tiến so với tình hình hiện nay… Cho nên việc chấp nhận sở hữu tư nhân không cản trở mục đích phát triển kinh tế nói chung như  nhiều nhà lý luận ở Việt Nam đang dùng để chống việc chấp nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai.
Quả là xót xa khi một nhà bình luận nước ngoài, ông Jonathan London viết : “Kết quả không bất ngờ của quá trình này là Quốc Hội CHXHCNVN đã quyết định tiếp tục không nghe gì ngoài những tiếng dội từ quá khứ. Thay vì thực sự xem xết lại những hạn chế của mô hình cũ, QH sắp phê duyệt một hiến pháp “sửa đổi” mà không có một sự thay đổi cơ bản nào.
Từ những dẫn giải và phân tích hai vấn đề về Hiến pháp và Luật đất đai nói trên, nếu nói là lòng dân bất an thì phải chăng đây là một trong những “bất an” lớn nhất hiện nay? Nỗi day dứt thật lòng của đại biểu QH Nguyễn thị Quyết Tâm “Lòng dân bây giờ thật sự bất ổn trên nhiều góc độ lắm. Những cái không công bằng, những cái không minh bạch trong chính sách làm người dân không tin tưởng. Phải có giải pháp, mà quan trọng nhất là phải có cơ chế để đo được lòng dân. Vì nói cho cùng, lòng dân là một trong ba yếu tố đảm bảo ổn định chính trị xã hội – đó là sự đồng thuận xã hội ” cần phải được đặt vào trong tổng thể nói trên.
Làm sao có “đồng thuận xã hội” khi mà hơn 77% vụ khiếu kiện liên quan đến quyền sở hữu đất đai mà đạo luật cao nhất, cơ bản nhất lại không tường minh về chuyện này? Liệu có phải không thể tường minh vì vướng vào một trong những vấn đề then chốt nhất của ý thức hệ, điểm tựa “bât di bất dịch” của thể chế hiện hành. Nếu để mất cái này cũng có nghĩa là mất “chủ nghĩa xã hội”, một ảo ảnh đang cố tạo dựng thành một hiện hữu như kiểu gợi hình ảnh giếng nước ảo trong sa mạc nhằm làm dịu cơn khát đang đốt cháy sức lực khách lữ hành.
Thật ra thì chuyện sở hữu được xem là nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản được “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ” do C.Mác và Ph Angghen soạn thảo từng tuyên bố rành rọt “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này là : xóa bỏ chế độ tư hữu” đã phá sản từ lâu rồi. Chính tác giả của bản Tuyên ngôn đã từng nhiều lần khuyến cáo việc “về nhiều mặt phải viết khác đi“, “việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời và do đó không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II“*[ tức là chương đưa ra "công thức duy nhất" dẫn ra ở trên. TL] . Những câu này viết năm 1872. Đến năm 1888 được nhắc lại và nhấn mạnh rằng “vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra trong đó. Tuy nhiên, “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa.”*
Tài liệu lịch sử” ra đời cách nay đã 165 năm [tính từ 1848] , thế giới đã trải qua bao biên động dữ dội thế mà cứ khư khư bám lấy nó, biến nó thành giáo điều phải học thuộc lòng thì không trì trệ và “ngột ngạt” mới lạ! Chính Nguyễn Ái Quốc ngay từ năm 1924 đã thẳng thừng tuyên bố : “không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” **. Vì thế Nguyễn đòi hỏi “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông“**.
May thay, từ Đổi Mới với Đại hội VI chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó sở hữu tư nhân, trao quyền tự chủ sản xuất và kinh doanh về cho hộ kinh tế gia đình nông nghiệp, tạo nên cục diện mới, vượt qua bờ vực của sự sụp đổ. Vậy là, bằng hành động thực tế, người cộng sản Việt Nam đã từ bỏ “công thức duy nhất” vốn là nguyên lý cơ bản nhất của ý thức hệ XHCN! Nhưng cũng chính ở đây lại nổi rõ lên cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cũ và mới, giữa bảo thủ, giáo điều với tiến bộ và sáng tạo. Chưa lúc nào mà mệnh đề về phép biện chứng được Hégel nêu ra mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hoá” lại được thể hiện sinh động đến thế trong đời sống của xã hội ta! Cái “trạng thái cũ đang suy đồi” hiện lên bằng xương, bằng thịt, đi lại nói cười, rao giảng, thuyết lý, lừa mị, trấn áp…thôi thì thiên hình van trạng. Mà cái “trạng thái” ấy duy trì được là do “ được tập quán thần thánh hoá”!
   Khi bà đại biểu QH Nguyễn thị Quyết Tâm nhận ra rằng “chúng ta đang ngày càng vùng vẫy trong những khó khăn đến mức nghẹt thở như vậy” thì phải cố tìm cho ra cội nguồn của sự “nghẹt thở” ấy trong “cuộc chiến đấu khổng lồ” mà Hồ Chí Minh nêu trong Di Chúc : “chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi“, khi mà cái “cũ kỹ, hư hỏng” vẫn đang ngự trị trong đời sống, đang tác oai tác quái nhằm duy trì được ngày nào hay ngày ấy cái “trạng thái cũ” được khoác cái áo kiên định đi theo con đường Bác đã chọn mà thực chất là phản lại tư tưởng Hồ Chí Minh. Không chống lại được trạng thái cũ đang suy đồi vì người ta không thể và cũng không dám “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dừa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” để “giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này“** như Hồ Chí Minh đã căn dặn. Không thể và không dám làm như vậy, điều ấy thật dễ hiểu.
  Một chế độ toàn trị chỉ có thể duy trì sự tồn tại của nó bằng sự quay lưng lại với đòi hỏi dân chủ và quyền con người, quyền công dân trong một nhà nước pháp quyền đích thực. Dứt khoát không chấp nhận tam quyền phân lập, dứt khoát không lập tòa án hiến pháp, kiên quyết duy trì chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, duy trì điều 4 của Hiến pháp v.v… là diễn biến logic của việc quyết bảo vệ chế độ toàn trị cho dù biết rằng, sớm muộn thì sự sụp đổ là không thể tránh khỏi khi đi ngược lại với quy luật phát triển của cuộc sống.
   Chính ở đây thể hiện quá rõ một cuộc khủng hoảng lý luận triền miên tiếp theo sự sụp đổ của hệ thống XHCN! Và rồi chỉ còn lại “thành trì ” gồm Bắc Triều Tiên [với cha con cháu chắt nhà họ Kim], Cuba [với anh em ông Phiđen], Trung Quốc [với Mao "nghìn năm công tội" của những cuộc thanh trừng đẫm máu chưa bao giờ dứt trong bộ máy cầm quyền mà vụ Bạc Hy Lai đang nóng hổi chắc chắn chưa là vụ cuối cùng của cuộc tranh bá đồ vương], Lào và Việt Nam. Điều mà bà đại biểu “nghe có vẻ như thành thật lắm nhưng có lẽ chưa có sự nghiêm túc tự vấn lương tâm và trách nhiệm” cần phải truy tìm nguyên nhân từ cuộc khủng hoảng lý luận triền miên này. Vậy mà chưa bao giờ những người giữ trọng trách “cầm cân nảy mực” công khai và minh bạch thừa nhận để huy động trí tuệ của dân tộc cùng góp sức vượt qua.
   Chỉ xin gợi ra đây một chuyện vừa trớ trêu vừa bi hài minh họa cho sự khủng hoảng đó : trong khi “kiên định lập trường theo con đường đã chọn” thì những nhà chiến lược, nhà ngoại giao, nhà kinh tế của ta lại đang ra sức thuyết phục và tìm mọi cách để các nước tư bản công nhận Việt Nam đã có nền kinh tế thị trường đích thực mặc dầu trên văn bản chính thống thì luốn có cái đuôi “định hướng XHCN” đi kèm ! Liệu có phải ai đó đang lâm vào cảnh : “Cờ đang dở cuộc, không còn nước. Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng“? Vậy thì có cần “tự vấn lương tâm” ở đây không nhỉ khi “lương tâm là yếu tố cốt yếu của lý trí thực hành” mà Aristot, nhà hiền triết cổ đại và Kant, nhà triết học lớn nhất của thời cận đại đều khẳng định.
   Vậy là cái “cơ chế để đo được lòng dân” khi mà “lòng dân bây giờ thật sự bất ổn trên nhiều góc độ lắm” mà nữ chính khách bức xúc nêu lên rút cục lại phải bắt đầu từ đâu?
   Liệu có phải từ sự khủng hoảng về lý luận dẫn đến sự rối loạn trong hoạt động thực tiễn khi mà đã có cả rừng luật và văn bản dưới luật nhưng luật rừnglại đang được thực hiện phổ biến? Rồi chuyện dân tự xử vì không còn tin ở luật pháp như việc đập chết người ăn trộm chó [mà riêng năm nay đã có 10 người trộm chó bị dân đập chết] cho đến chuyện công an cùng với chủ đầu tư sử dụng côn đồ để trấn áp người dân biểu tình khiếu kiện giữ đất đang có xu hướng ngày càng bạo liệt. Không thể nào liệt kê ra đây “những bất ổn trên nhiều góc độ” nên chỉ giới hạn ở hai vấn đề Hiến pháp và Luật đất đai, những “vấn đề của vấn đề” đang tích tụ hàm lượng lý luận và thực tiễn cần phải được tập trung giải quyết. Đó cũng là hai vấn đề mà Quốc hội sẽ biểu quyêt thông qua trong kỳ họp này. Lòng dân “an” hay “bất an” tùy thuộc vào chuyện lớn này.
    Đó chính là lý do để người viết bài này trân trọng ghi nhận những ý kiến sâu sắc và mạnh mẽ của người nữ đại biểu Quốc hội về nỗi bất an của lòng dân.
   Sự sâu sắc và mạnh mẽ của một nữ chính khách bỗng ngẫu nhiên gợi lên liên tưởng về cung cách ứng xử của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đối với đám trí thức rởm mà bà chúa thơ Nôm ấy réo gọi là “lũ ngẩn ngơ” chỉ quen “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa” thì hãy “lại đây cho chị dạy làm thơ” [hay làm chính khách]. Người kỳ nữ ấy cũng chỉ mặt bọn chỉ quen ăn theo nói leo không được một tích sự gì : “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông, Chúng bảo nhau rằng ấy ái uông !
  Rồi đây các đại biểu QH sẽ bấm nút biểu quyêt thông qua Hiến pháp và Luật Đât đai, những vân đề liên quan mật thiết đến chuyện an dân, liệu có nên bắt chước bản lĩnh của thiên tài kỳ nữ Xuân Hương mà cảnh báo chuyện phải cực kỳ thận trọng việc thò tay bấm nút rằng :
         “Này này chị bảo cho mà biết
        Chốn ấy hang hùm chớ mó tay“!
Ngày 26.10.2013

24 thg 10, 2013

Trò lừa đảo của những nhà ngoại cảm

  Nhiều năm nay không biết bao gia đình tốn kém công sức, tiền của đi tìm hài cốt của thân nhân, nhờ những nhà ngoại cảm như Nguyễn Văn Liên, Phan Thị Bích Hằng...họ đã vô lương tâm lừa gạt cả những người còn sống và những người đã chết, kể cả liệt sĩ Phùng Chí Kiên Ủy viên trung ương. VTV đã vạch trần thủ đoạn của bọ họ.

23 thg 10, 2013

Ai đã đến đây?

                Anh bạn tôi gửi qua mail bức ảnh này chỉ một câu ngắn gọn: Ai đã đến đây?


Chống tham nhũng chỉ tìm được ở bản làng

    Bản báo cáo kết quả giám sát “Chấp hành pháp luật trong việc xử lý tội phạm về tham nhũng, chức vụ” của Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã đặt ra vấn đề trách nhiệm của các cơ quan chức năng như thanh tra, kiểm toán trong việc bỏ lọt các vụ việc sai phạm lớn.     
    Thừa nhận những kết quả tích cực trong quá trình thanh, kiểm tra của các cơ quan chức năng của Chính phủ, song theo Ủy ban, việc đánh giá tình hình tham nhũng tại các địa phương mà đoàn tiến hành giám sát cũng như trên phạm vi cả nước theo tiêu chí mà Thanh tra Chính phủ ban hành còn “rất lúng túng, ít được quan tâm thực hiện”. 
 Quá trình giám sát của Ủy ban đã phát hiện tình trạng công tác thanh tra phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng ở nhiều địa phương còn rất hạn chế; nhiều tỉnh, thành phố hàng năm tiến hành rất nhiều cuộc thanh tra, phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý Nhà nước với thất thoát nhiều tỷ đồng, nhiều ha đất, nhưng lại không phát hiện được tham nhũng hoặc có phát hiện được thì rất ít, phần lớn là các vụ nhỏ lẻ ở cấp xã, thôn. 
 Ủy ban Tư pháp cho rằng, thực trạng công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng qua công tác thanh tra là chưa tương xứng với đánh giá về tình hình tham nhũng ở Trung ương cũng như ở nhiều địa phương vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, chưa có dấu hiệu giảm; chưa phúc đáp được yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong công tác phòng, chống tham nhũng. 
“Nguyên nhân của tình trạng trên đây có phần trách nhiệm, kỷ luật công vụ đối với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, đoàn thanh tra, kiểm toán và thanh tra viên, kiểm toán viên chưa rõ ràng, cụ thể và còn bị buông lỏng trong tổ chức thực hiện”, báo cáo viết. 
Ví dụ điển hình là tại một số bộ, ngành, địa phương tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm toán, nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp công ích, tổng công ty, các tập đoàn kinh tế nhưng lại không phát hiện được tiêu cực, tham nhũng; tuy nhiên, sau đó báo chí, cơ quan điều tra lại phát hiện ra như trường hợp Vinashine, Vinalines. 
“Mặc dù vậy, các đoàn thanh tra, kiểm toán, thanh tra viên, kiểm toán viên, cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán lại không bị xem xét trách nhiệm và không phải chịu trách nhiệm về việc thanh tra, kiểm toán nhiều nhưng không phát hiện ra tham nhũng”, báo cáo nêu vấn đề. 
Trong tháng 7/2013, Ủy ban Tư pháp đã thành lập 3 đoàn công tác tiến hành giám sát tại thành phố Hà Nội, Tp.HCM, các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Hải Dương, Bình Dương, Quảng Bình và Quân khu 3.
  Từ kết quả giám sát, Ủy ban đề nghị Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao trong phạm vi trách nhiệm của mình, trên cơ sở đánh giá, tổng kết thực tiễn công tác thi hành Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đề xuất, kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định của luật nhằm bảo đảm tạo cơ chế kiểm sát, giám sát chặt chẽ việc xử lý kỷ luật, xử lý hành chính đối với hành vi tham nhũng để chống bỏ lọt tội phạm và tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong xử lý vi phạm hành chính.
  Bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm minh đối với tội phạm về tham nhũng, chức vụ; quy định cụ thể, đầy đủ hơn về thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm; bảo đảm thời hạn xử lý tin báo, tố giác tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này phù hợp với yêu cầu thực tiễn…

  VnEconmy

17 thg 10, 2013

KHÓC CHO CHÍNH MÌNH

  Trên facebook của Nhà văn Dạ Ngân (vợ NV Nguyễn Quang Thân) một vài trang mạng đã đưa:
  Quá nhiều nước mắt trong những ngày này. Không phải mọi người đều khóc Ông. Không bao giờ có chuyện tất cả mọi người đều đồng lòng, huống chi đây là cái chết của một vị tướng thuộc phe thắng cuộc.
Nhưng sự thực thì nước mắt đã tuôn rơi nhiều hơn mức người ta có thể hình dung. Những người trong cuộc, những người từng cùng một chiến hào với Ông biết rõ, nỗi niềm này không giống hoàn toàn với hồi người ta khóc Hồ Chí Minh. Hồi ấy là cuộc chiến, cuộc chiến đang hồi mất mát lớn sau tổng tấn công Mậu Thân. Hồi ấy những người kháng chiến khóc một lãnh tụ, một thuyền trưởng, một con tàu và một cảm giác mồ côi chung.
  Bây giờ, mọi thứ đã xa và đã cũ. Nhưng sao người ta khóc Ông không khác gì “đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”? Nhiều tự phát, nếu không nói là hoàn toàn tự nguyện, tự phát. Người ta đã khiến những người cách trở cảm thấy bồn chồn, những người ưu thời mẫn thế cảm thấy chấn động và những người bàng quan cũng phải tò mò, suy nghĩ.
Khóc vì cùng quá khứ đau thương.
Khóc cho những lãng quên đã từng hiện hữu.
Khóc cho những bạc đãi không nói to lên được.
Khóc cho những trầm luân của đời người.
Khóc cho bất công và oan ức mà Ông từng là biểu tượng và cũng là một chiếc phao, cho họ.
Khóc cho những trần ai mà con người đã và sẽ còn nếm trải.
Và chắc là trên hết, người ta khóc cho chính mình, cho sự bế tắc của chính mình, cho chung quanh và cho mỗi ngày sống tới.
Ông đã thoát ra, bằng cú về quê ngoạn mục, không nghĩa trang chung gì cả. Và Ông sẽ được người ta tìm về để hành hương, đển khấn khứa, để tìm quên, để xin một niềm an ủi. Phần Ông, một danh tướng còn lại, không gì xứng đáng hơn hai từ Danh Tướng ấy.
  Nhưng rồi người ta sẽ lại về với nỗi niềm của mình, với mưu sinh của tha nhân, với những cuộc vật lộn triền miên với nền giáo dục với ngành y tế, với giao thông, với hỗn loạn, với sự tan rữa, mỗi ngày.
   Dù muộn, vẫn xin có mấy dòng khóc Ông và cho chính mình, một người con của liệt sĩ nhà tù, giống như Ông. Khóc cho mất mát đã từng và đổ vỡ cũng đã từng. Và khóc cho bế tắc của một quốc gia thật ít hòa giải và thanh bình dù đã có hòa bình khá lâu.

15 thg 10, 2013

Tại sao ý kiến Đại tướng chưa được “nghe” hết?

     Sau ngày đưa tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Vietnamnet đăng bài phỏng vấn GS Chu Hảo và nhà sử học Dương Trung Quốc. 

"Có lẽ, người dân trong tâm thức khi bày tỏ tình cảm với Đại tướng cũng chia sẻ nỗi niềm của mình về xã hội".

Bày tỏ nỗi niềm với thời đại
- Trong kháng chiến chống Mỹ, bà má miền Nam đào hầm nuôi chiến sĩ, bà mẹ miền Bắc đưa con ra chiến trường. Những bà mẹ đó đã tin Bác Hồ, tin Đảng, tin tưởng vào cách mạng. Vậy thì điều gì đã xảy ra với chúng ta hôm nay khiến niềm tin ấy biến mất khi mà nó đã từng là điều rất đương nhiên với dân tộc này?
Ông Dương Trung Quốc: Đảng Cộng sản đã thực thi được trách nhiệm lịch sử của mình, trước hết không phải là do lý thuyết cộng sản, mà khi đó nó còn là hiện thân của lòng yêu nước và người dân đi theo.
Nếu nói về lịch sử, chúng ta nhớ rằng thời kỳ năm 1945, cụ Hồ tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản, đưa Đảng vào hoạt động bí mật để mà tiếp tục thu hút lòng dân khi người dân chưa hiểu hết về học thuyết, về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng người dân vẫn đi theo, vì tấm gương và sự thu hút của những con người rất cụ thể.
Lúc đó về chính danh, Đảng Cộng sản không tham gia Quốc hội. Người đảng viên cộng sản tham gia Quốc hội qua những tổ chức xã hội khác. Lúc đó cụ Hồ đã nói: "Đảng của tôi là Đảng Việt Nam".

Chúng ta nói nhiều đến Đại tướng với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội. Chúng ta đừng quên rằng một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Vì Võ Nguyên Giáp vốn là một nhà Luật học. Ảnh: VNA
Mong muốn của thế hệ Hồ Chí Minh là kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cộng sản. Sự kết hợp đó đã thành công trong một giai đoạn nhất định. Nhưng sự kết hợp đó hiện nay đang có vấn đề, và những người đảng viên có trách nhiệm phải xem lại chuyện đó.
Bởi tất cả các vấn nạn xã hội đều phải có nguồn gốc. Đảng đã nhận mình là người lãnh đạo cao nhất thì cũng phải chịu trách nhiệm toàn bộ.
  Khi nói về Luật phòng chống tham nhũng ở Quốc hội mấy năm trước, tôi từng nói tham nhũng là một căn bệnh, nhưng có bao nhiêu đảng viên "dính líu" tham nhũng. Vì hầu hết những vị tham nhũng đều là những quan chức, đều phải là đảng viên. Việc chống tham nhũng cũng có nghĩa là tự bảo vệ Đảng.
Không chống được tham nhũng cũng có nghĩa là Đảng không còn đủ năng lực để tự bảo vệ mình. Vì thế tôi cho rằng vấn đề quan trọng nhất kể cả trong những chuyện chúng ta bàn liên quan đến Đại tướng, chúng ta có thể có nhiều câu hỏi: Tại sao những ý kiến Đại tướng đóng góp chưa được tiếp thu đầy đủ? Thậm chí có những ý kiến của Đại tướng còn không được trả lời.
Có lẽ,  người dân trong tâm thức khi bày tỏ tình cảm với Đại tướng cũng chia sẻ nỗi niềm của mình về xã hội.
Ông Chu Hảo: Càng ngày, trình độ nhận thức của người dân càng cao và yêu cầu đối với những người đứng đầu ngày càng khắt khe. Khi hiểu biết của đại bộ phận nhân dân còn hạn hẹp, thông tin đa chiều hạn chế việc vận động quần chúng thực hiện mục tiêu chính trị do những người đứng đầu đề ra không mấy khó khăn.
Nhưng nay thì khác …
Do đó, nếu những người đứng đầu vẫn theo lối  nói một đằng làm một nẻo, không nhất quán, nhất là đưa ra một số chủ trương, đường lối không đúng đắn khiến đất nước ngày càng tụt hậu với khu vực và thế giới, thì dù có bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu chiến công hiển hách của thế hệ trước cũng sẽ không thể bù đắp được.
Chúng ta phát động phong trào "Học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", nhưng cái đạo đức "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư" của Hồ Chí Minh chúng ta lại không học được.
Các hiện tượng giả dối, chuộng hình thức và tham nhũng ngày một nặng. Điều mà chúng ta thực sự cần nghiêm túc nhìn nhận lúc này là xem nguyên do của nó bắt nguồn từ đâu. Nếu không dũng cảm thừa nhận và quyết sửa thì không bao giờ có được niềm tin của dân.
Một trong những điều chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận lại là công tác tuyên truyền- hệ thống giáo dục hiện nay. Trong một xã hội, chất lượng của nguồn nhân lực phụ thuộc chủ yếu  vào nền giáo dục quốc dân.
Nền giáo dục quốc dân ở các nước thường có ba thành tố chính: Giáo dục học đường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội.
Ở nước ta, cũng như ở tất cả các nước XHCN, có một thành tố khác, là công tác tuyên truyền giáo dục của các hệ thống trường Đảng. Cần nhìn nhận những tồn tại trong hệ thống này để tìm hướng khắc phục
     Thời đại nào cũng cần những "cá nhân"
- Trên Tuần Việt Nam từng có một bài viết ví những cá nhân xuất chúng, những con người có nhân cách vĩ đại giống như "bảo hiểm" của dân tộc trước những thử thách, khó khăn. Đặt giả thiết nếu như những người lãnh tụ thực sự, những cá nhân kiệt xuất không xuất hiện khi đất nước cần, thì điều đó sẽ nguy hiểm thế nào đến vận mệnh dân tộc? Qua sự ảnh hưởng mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tạo ra trong những ngày vừa qua với người dân, với xã hội khi ông ra đi, cũng như qua những dẫn chứng lịch sử khác, ông nghĩ gì về vai trò của cá nhân kiệt xuất đối với lịch sử và ảnh hưởng của họ với nhân dân?
Ông Chu Hảo: Tôi luôn cho rằng vai trò của cá nhân lúc nào cũng tác động rất lớn đến sự thay đổi của lịch sử.
Dĩ nhiên nếu không có cá nhân này, có thể sẽ xuất hiện các cá nhân khác, nhưng trình tự lịch sử, diễn biến lịch sử sẽ không diễn ra đúng như những gì chúng ta đã nhìn thấy nữa. Dù thế nào, xã hội cũng sẽ luôn phải vận động để đi lên. Sẽ rất nguy hiểm nếu xã hội không thể xuất hiện những con người như thế nữa.
Một xã hội có dân chủ, có tự do tư tưởng, thì sẽ xuất hiện nhiều những người có tài kinh bang tế thế. Và ngược lại. Nhưng có một điều đặc biệt là trong những lúc khó khăn mà một nhân vật như vậy xuất hiện thì có khi lại làm nên chuyện.
 Phải nói thêm rằng khái niệm "lãnh tụ" chỉ tồn tại ở những cộng đồng xã hội chưa trưởng thành. Ở các nước dân chủ và văn minh những người đứng đầu quốc gia cũng chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình như một hình thức phân công lao động xã hội, không "oai nghiêm " không "thần thánh" gì đâu.
Ông Dương Trung Quốc: Mỗi thời kỳ lịch sử có những nhân vật khác nhau với những tầm vóc khác nhau. Thế kỷ 20 của chúng ta, những nhân vật kiệt xuất đều gắn với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Từ những chí sĩ Cần Vương đến những nhà dân chủ và những người cộng sản. Những thế hệ đó để lại hình tượng, để lại bài học. Đương nhiên sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng - đó không chỉ là khẩu hiệu mà là sự thực.
 Hiện tượng chúng ta đang bàn đến cũng mang tính chất cách mạng, cũng là một yếu tố cách mạng: Cách mạng về mặt lối sống, cách mạng về mặt văn hóa, cách mạng về mặt tinh thần và những giá trị xã hội. Nhưng vai trò người lãnh đạo cũng vô cùng quan trọng.
Thời đại nào cũng cần những cá nhân. Những cá nhân ấy cộng với một cơ chế để có thể tập hợp được những cá nhân tiêu biểu nhất. Đó là nhân tố để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên những nhà lãnh đạo lớn, những nhân vật kiệt xuất chỉ xuất hiện trong một thời điểm, một giai đoạn nào đó. Nhưng có thể thay thế điều đó bằng một cơ chế để tập hợp những người tiêu biểu nhất. Cơ chế đó là sự dân chủ.
 Lỗi ở trí thức
- Thời điểm Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, rất nhiều người đã nói, đây là một trong những người cuối cùng của thế hệ cách mạng tháng Tám đầy lý tưởng và trong sáng, đã ra đi.  Những bài học để lại sẽ gợi cho người đương thời suy nghĩ gì?
Ông Chu Hảo: Muốn thay đổi không có cách nào khác là phải xây dựng một thể chế chính trị dân chủ lành mạnh, để phát huy được hết sức mạnh của nhân dân trong  xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, trong đó  xã hội dân sự là một thành tố quan trọng.
Tức là, trong bối cảnh của nước ta hiện nay,  phải xây dựng một nền móng cho phong trào dân chủ từ dưới lên. Nhưng để cải cách thể chế thì phải làm từ trên xuống.
Trong khi có phong trào dân chủ làm nền móng như vậy, thì trong đội ngũ người đứng đầu phải có những  lực lượng tiến bộ dũng cảm và sáng suốt đặt lợi ích của dân tộc lên trên hêt, dựa vào khối đại đoàn kêt của toàn  dân, tiến hành cải cách triệt để từng bước.
Ông Dương Trung Quốc: Chúng ta phải đặt Việt Nam trong một tiến trình phát triển. Cũng có những giai đoạn lịch sử, cũng có những giai đoạn chuyển tiếp.
Hoàn cảnh hiện nay đã thay đổi và chắc chắn sẽ không còn những nhân vật như trong quá khứ nữa - thời điểm mà vai trò của cá nhân rất quan trọng. Chúng ta thường hay nói đến câu chuyện giữa Nhân trị và Pháp trị. Để xã hội phát triển, càng ngày chúng ta càng phải chuyển đổi từ Nhân trị sang Pháp trị.
Nói Pháp trị không có nghĩa là phủ nhận hay không đề cao vai trò cá nhân. Nhưng con người ấy phải nằm trong cơ chế, một cơ chế thật sự dân chủ.
Tại sao cụ Phan Chu Trinh nói nhiều về dân chủ, tại sao Bác Hồ cũng đề cao dân chủ? Là vì họ nhìn thấy cơ chế dân chủ có thể đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, giúp ta hội nhập với thế giới.
Thời đại đã thay đổi. Thay vì ngồi chờ cá nhân xuất hiện, chúng ta hãy dùng cơ chế dân chủ để bảo vệ và xây dựng đất nước. Có thể người dân vẫn hy vọng, vẫn chờ đợi những người như Hồ Chí Minh, như Võ Nguyên Giáp xuất hiện, nhưng tôi cho rằng chúng ta phải chấp nhận xu thế, phải nhận thức xu thế.  Và tôi nhấn mạnh, quan trọng nhất vẫn là cơ chế.
Ngày xưa người ta gắn kết được lợi ích cá nhân với lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc. Bây giờ sự gắn kết đó khó hơn nhiều. Ngày xưa mẫu số chung là chống giặc ngoại xâm. Ai cũng nghĩ đến điều đó. Bây giờ sự lựa chọn nhiều hơn, sự gắn kết cũng giảm đi.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi còn sống, ông từng dặn thế hệ trẻ:"Thế hệ cha anh đã rửa nỗi nhục mất nước, thế hệ ngày nay phải rửa nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu". Nhìn lại đất nước, chúng ta đã có những bước phát triển đáng kể so với thời điểm chúng ta giải phóng đất nước vào năm 1975, nhưng vẫn còn có những cái nghèo khác nữa. Nhiều người dường như đang kêu về các bất cập nhưng con người hành động  lại không chịu xuất hiện... Vậy ai có lỗi trong tất cả những sự tụt hậu này?
Ông Chu Hảo: Lỗi trước hết là trí thức, là tầng lớp tinh hoa.
Trong thời chiến, các tầng lớp xã hội đều có vai trò nhất định, nhưng lực lượng nòng cốt phải là đông đảo quần chúng.
  Còn trong thời bình, lực lượng nòng cốt phải là
 những người có tri thức Ngoài lỗi của những người đứng đầu đất nước, thì bản thân tầng lớp trí thức chậm giác ngộ, thiếu ý chí là những người phải nhận phần lỗi không nhỏ khi xã hội không phát triển được.
Người đứng đầu phải do dân chọn
Ông Dương Trung Quốc: Xã hội sẽ có những chuyện như thế. Nhưng cũng vì thế mà chúng ta mới cần những người quản lý.
Ở làng xã ngày xưa, họ quản lý bằng truyền thống, bằng tập quán, bằng văn hóa. Xã hội cũng thế. Câu "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" rất hay và rất đúng. Nếu ở trên nghiêm thì dưới cũng sẽ nghiêm. Phải có một sự kiên trì làm thay đổi từng bước trong xã hội, đó không phải chỉ là sự đổi mới ở thượng tầng mà nhân dân cũng nhất định phải thay đổi.
Nhưng muốn dân đổi mới thì phải cho dân thấy lợi ích. Nhà nước chưa tạo ra được giá trị đó. Lỗi này không phải là do kỹ năng, mà là do cơ chế. Khi một người làm không tròn nhiệm vụ mà cấp trên của họ không thể xử lý họ, như Thủ tướng Phan Văn Khải nói trước khi nghỉ hưu: "Không thể kỷ luật ai được", thì những người đó sẽ câu kết nhau thành nhóm lợi ích và tạo ra sự hủy hoại xã hội, hủy hoại lòng tin.
Sự phát triển của xã hội, sự phát triển của dân trí luôn có quan hệ biện chứng với vai trò của những người đứng đầu. Muốn xã hội phát triển, anh phải đi đầu, phải gương mẫu, phải sáng suốt. Và người đi đầu phải do dân chọn. Đó phải là cơ chế dân chủ, như chúng ta nói nãy giờ.
Tôi tham gia Quốc hội, tôi thấy cứ có vấn đề gì đem ra bàn là chúng ta lại lấy lý do "đó là cách làm của ta". Hay như câu nói cửa miệng của một trí thức đã mất "cái nước mình nó thế".
Vấn đề rất cụ thể như vấn đề doanh nghiệp Nhà nước mà Quốc hội đang bàn đến rất nhiều. Cả thế giới khác chúng ta mà chúng ta cứ bám vào lý do "đó là đặc thù của Việt Nam".
Chẳng nói đâu xa, nếu muốn thay đổi, thứ đầu tiên chúng ta có thể xem lại chính là những di cảo, những kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Một người rất sớm nhận thức được các vấn đề của xã hội.
Chúng ta nói nhiều đến Đại tướng với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội. Chúng ta đừng quên rằng một trong những vai trò cực kỳ quan trọng của ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Vì Võ Nguyên Giáp vốn là một nhà Luật học.
Thời đó rất nhiều nhà trí thức làm Luật được cụ Hồ trọng dụng để tạo ra nền tảng ban đầu. Nhưng sau này chúng ta không kế thừa được nó mà biến nó thành một thứ duy ý chí của những người lãnh đạo. Những chuyện đó là những bài học. Nói về vấn đề biển đảo, ngay trong khi chỉ đạo cuộc chiến tranh giải phóng, Võ Nguyên Giáp đã quan tâm đến lợi ích quốc gia về vấn đề biển đảo.
 Ông không những chỉ đạo giải phóng những đảo thuộc chủ quyền của chính quyền Sài Gòn mà còn khẳng định không gian chủ quyền của chúng ta trong vấn đề biển đảo. Năm 1977, hai năm sau chiến tranh, Võ Nguyên Giáp đã có cả một đường lối về kinh tế biển, chiến lược biển. Các nhà lãnh đạo của chúng ta ca ngợi Đại tướng rất nhiều, nhưng đã bao giờ chúng ta thực sự nghiêm túc nhìn nhận và tiếp thu những ý kiến đóng góp của ông trong quá trình xây dựng đất nước chưa? Tôi cho đó là câu chuyện cần phải làm ngay.
Tôi muốn mượn câu của cụ Hồ nói một điều cuối cùng: "Dân chủ là làm cho dân mở miệng. Cái đáng sợ nhất không chỉ là người dân không dám mở miệng vì anh dùng quyền lực. Cái đáng sợ nhất là người dân không thiết mở miệng!"
Mùa gieo hạt mới
- Trong một cuộc trò chuyện cách đây mấy ngày, nhà thơ Việt Phương có nói với tôi rằng: Sự kiện Đại tướng Võ Nguyên Giáp mất giúp ông cảm nhận được sự thay đổi. Ông đã nhìn thấy tình yêu và lòng tự hào dân tộc trỗi dậy trong những dòng người đến viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đó khiến nhà thơ Việt Phương hy vọng về những hạt mầm mới sẽ được gieo, để cho một mùa gặt mới? Các ông nghĩ sao?
Ông Chu Hảo: Tôi trân trọng và  chia sẻ ý tưởng của nhà thơ Việt Phương. Tuy nhiên từ đáy lòng mình tôi vẫn nghĩ rằng dân tộc ta là một dân tộc không được may mắn cho lắm: Quá nhiều đau thương và bỏ lỡ quá nhiều cơ hội.
Sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp hình như đã làm bùng lên khát vọng của nhân dân có những nhà lãnh đạo tài ba sáng suốt thật sự vì nước vì dân. Rồi sống mãi trong lòng dân.
  Những điều đang diễn ra đã giúp tôi hiểu thêm được rằng sự phán xét của lịch sử trước hết là sự phán xét của lòng dân.
Lòng kính yêu của những ngưới dân bình thường dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng là một thông điệp: Ai thực sự vì dân vì nước dân đều biết cả.
Ông Dương Trung Quốc: Nhưng ai là người tổ chức chăm sóc những hạt mầm tốt đẹp cho mùa gặt mới?  Rất khó làm được điều đó, nếu chúng ta không nhận ra và không phát huy được vai trò của các tổ chức dân sự xã hội, vì họ là những người thực hiện nó tốt nhất.
Còn bộ máy của chúng ta, kể cả Đoàn Thanh niên, dù tôi rất quý trọng nhưng vẫn phải thẳng thắn nói rằng nó vẫn còn quá quan liêu và thậm chí nó có thể làm thui chột đi những nhân tố mới vừa thành hình. Không gì tốt bằng sức mạnh của dân.
Trong những ngày qua, ai là người tổ chức mua nước uống, mua bánh mì phát cho bà con nhân dân đến viếng Đại tướng? Ai là người nghĩ ra việc in áo, in phù hiệu có hình Đại tướng để làm quà tặng cho người dân Quảng Bình? Đó hoàn toàn là những ý tưởng, những hành động xuất phát từ cá nhân, không phải do bất cứ tổ chức, cơ quan nhà nước nào cả.
Hiện tượng này quan trọng nhất là làm cho chúng ta có niềm tin hơn rằng vẫn có tiềm năng rất to lớn.
Nhưng vấn đề ai khai thác, ai tổ chức cũng là một câu hỏi lớn. Một mùa gieo hạt mới nhưng không có môi trường, không có điều kiện phát triển thì tất cả những hạt mầm đó cũng bị thui chột.
Tôi rất mong những người có trách nhiệm hiện nay sẽ nhận ra điều đó và coi đây là cơ hội để phát huy. Còn nếu sự kiện này chỉ thoảng qua và mọi thứ lại quay lại như cũ, và câu chuyện mấy ngày vừa qua trở thành ký ức, thì nó có thể làm tăng thêm niềm thất vọng?
- Thưa nhà sử học Dương Trung Quốc, vậy theo ông thì làm thế nào để mùa gieo hạt đó gặt được mùa bội thu? Cần những điều kiện gì để thành công?
Ông Chu Hảo: Một xã hội dân chủ thực sự - đó chính là con đường nhanh nhất.
Nếu không đi được con đường nhanh nhất đó, có thể vẫn sẽ xuất hiện được những con người có nhân cách lớn, thay đổi bộ mặt đất nước, nhưng chúng ta sẽ phải chờ đợi rất lâu và cái giá mà dân tộc này phải trả cho sự chờ đợi đó sẽ là rất đắt.
Ông Dương Trung Quốc: Trong thời điểm này, điều quan trọng nhất là cả dân tộc phải tụ tâm. Hiện có quá nhiều điều khiến chúng ta phải phân tâm.
Dù cuộc sống là phức tạp, cạnh tranh là xu thế, nhưng cuối cùng sự tụ tâm vẫn là quan trọng. Chúng ta hướng tới sự tụ tâm, từ các nhà lãnh đạo đến nhân dân, để tìm ra cái chúng ta thiếu.
Mà theo tôi cái thiếu quan trọng nhất là sự gắn kết nhau vì lợi ích quốc gia, như là thế hệ của Bác Hồ, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

- Xin cảm ơn hai ông!